Cầu Na Bạt Ma
Minh Thành Tổ Chu Lệ | Đức Nghiêm Đức Thuận Nguyên Nhứt, Việt Dịch


Cầu na bạt ma, Trung Hoa dịch là Công Đức Khải. Sư thuộc dòng Sát lợi, tổ tiên nhiều đời làm vua cai trị nước Kế tân. Năm mười bốn tuổi, sư đã thông minh hiểu rộng trí tuệ uyên bác, bản tánh nhân từ hòa ái, tôn sùng đạo đức thích làm việc thiện. Có lần, mẹ sư muốn ăn thịt rừng, bảo sư làm. Sư đáp:

Tất cả mọi loài đều tham sống sợ chết, nếu giết chúng thì chẳng phải là người nhân từ.

Năm hai mươi tuổi sư xuất gia, thụ giới, làu thông cữu bộ, [5] hiểu rộng bốn bộ A hàm[6] tụng kinh hơn trăm vạn lời, hiểu sâu luật tạng, thấu đạt yếu chỉ thiền. Người đương thời gọi sư là Tam tạng pháp sư. Năm sư ba mươi tuổi, vua nước Kế tân băng, nhưng không có người kế vị. Quần thần bàn bạc:

– Bạt ma vốn dòng dõi vua chúa, tài đức lại song toàn, chúng ta nên đến thỉnh ngài hoàn tục để kế vị.

Quần thần kéo đến hơn trăm người, nhiều lần cầu thỉnh nhưng sư không nhận lời. Sư bèn từ biệt thầy và đại chúng đi khắp nơi, rồi ẩn cư trong rừng sâu. Sau đó, sư đến nước Xà bà.

Trước lúc sư đến, thái hậu nước Xà bà mộng thấy một vị đạo sĩ đi trên thuyền lớn vào nước mình. Sáng ra, quả thật sư đến. Thái hậu rất kính tin Tam bảo, nên cầu xin sư thụ trì năm giới. Nhân đó, thái hậu khuyên vua:

– Đời trước có phúc duyên rất lớn nên mới trở thành mẹ con, nay mẹ đã thụ giới rồi mà con không kính tin Tam bảo, e rằng đời sau chúng ta không còn được phúc duyên này.

Vua liền vâng lời mẹ, thụ trì giới cấm, dần dần bỏ hết mọi dục nhiễm, tinh chuyên tu tập. Lúc ấy, nước láng giềng đem quân xâm lấn, vua nói với sư:

– Giặc bên ngoài cậy thế muốn xâm lấn đất nước, nếu ta giao chiến thì sẽ làm tổn thương rất nhiều người, còn nếu ta không chống trả thì đất nước này sẽ bị nguy vong. Nay chỉ nương theo thầy, chứ không biết phải làm sao!

Sư đáp:

– Thế giặc hung bạo thì phải chống trả, nhưng nên khởi lòng từ bi chớ có tâm sát hại!

Vua đích thân thống lãnh binh chinh phạt, cờ trống nổi lên, vừa giao chiến giặc đã chạy tán loạn, vua bị một mũi tên bay lạc xuyên qua chân, sư liền chú nguyện vào nước rồi rửa cho vua, chỉ hai ngày sau thì bình phục. Sau đó, vua xây tinh xá cho sư, và đích thân đẻo cây, bị thương ở ngón chân, sư lại chú nguyện để chửa trị, chỉ trong chốc lát liền bình phục. Bấy giờ, những sa môn danh đức ở kinh đô như: Huệ Quán, Huệ Thông … từ xa kính ngưỡng đạo phong của sư nên đều muốn đến tham vấn.

Tháng chín, niên hiệu Nguyên Gia thứ nhất (424), mọi người xin Văn Đế thỉnh sư, Văn Đế liền lệnh cho thứ sử ở Giao châu đưa thuyền lớn đến đón. Sa môn Huệ Quán… cũng sai các sa môn như: Pháp Trường, Đạo Xung, Đạo Tuấn…đến thỉnh. Văn Đế biết sư đã đến Nam Hải, liền lệnh cho quan ở các quận huyện khắp nơi trợ giúp sư đến kinh đô. Đường đến Thỉ Hưng phải trải qua hơn một năm. Ở Thỉ Hưng có núi Hổ Thị cao sừng sững, sư bảo núi này tựa như Kì xà quật, nên đổi tên là Linh Thứu. Sư lập một thiền thất cách chùa vài dặm. Tuy không nghe được tiếng khánh, nhưng mỗi lần đánh kiền chùy thì sư đã có mặt, gặp trời mưa lớn cũng không ướt, hoặc đi lên bùn chân vẫn không dơ. Đạo tục đương thời càng cung kính sư. Trong chùa có điện Bảo Minh, sư dùng tay vẽ tượng La vân[7] và bức tranh Định Quang Nho Đồng bố phát[8] ở bức tường phía bắc. Sau khi bức tranh hoàn thành, mỗi đêm đều phóng ra ánh sáng, rất lâu mới hết.

Bấy giờ, Thái Mậu Chi làm thái thú ở Thủy Hưng rất kính ngưỡng sư. Lúc ông sắp chết, sư đích thân đến thăm và thuyết pháp an ủi. Sau khi mất, người nhà mộng thấy ông ở chùa giảng pháp cho chư tăng.

Núi này có nhiều hổ, nhưng từ lúc sư đến ở, mọi người sớm tối đi về an ổn, có lúc gặp hổ, sư dùng tích tượng gõ nhẹ lên đầu, nó liền bỏ đi. Lần nọ, sư tọa thiền trong thất riêng nhiều ngày chưa xuất định, chư tăng trong chùa sai một sa di đến hầu. Khi đến, sa di thấy một con sư tử trắng đứng dựa cột, quanh thất mọc rất nhiều hoa sen xanh, sa di kinh sợ kêu lớn, mọi người đến xem thì sư tử biến mất.

Trước khi thị tịch, sư làm bài thi kệ di chúc ba mươi sáu hàng, kể lại nhân duyên đã chứng nhị quả, [9] tự tay niêm lại và trao cho đệ tử là A sa la rồi dặn:

– Sau khi ta qua đời, ngươi hãy mang bức thư này đến cho chư tăng ở Thiên Trúc, đồng thời thông báo cho chư tăng vùng này biết.

Sau khi dặn dò xong, sư ngồi kiết già trên thằng sàng an nhiên thị tịch, dung mạo không đổi, như đang nhập định. Đạo tục hay tin kéo đến hơn ngàn người, hương lạ thơm ngào ngạt, mọi người đều thấy một vật giống như con rồng dài hơn một thất, [10] từ bên nhục thân của sư vọt thẳng lên trờ, i không trở lại. Mọi người liền thỉnh nhục thân sư làm lễ trà tì trước giới đàn Nam lâm, theo nghi thức nước ngoài. Sư thọ thế 65 tuổi.