Kính thưa quý thầy, quý cô, cùng quý vị Phật tử! Nhân đây xin được chia sẻ cùng quý vị một câu chuyện cổ, câu chuyện này được trích ra từ Kinh Pháp Cú Thí Dụ, quyển số 2, phẩm La Hán 15, trong Đại Chánh Tạng quyển 4, trang 588b9 c26.
Vào thời quá khứ, có một nước tên là Na Lê, ở cạnh bờ biển phía Nam, người dân ở đó thường đi thu thập trân châu, gỗ quý chiên đàn hương (còn gọi là trầm hương) làm nghề sinh sống. Có hai anh em trai, cha mẹ đều đã qua đời nên họ mới cùng nhau phân chia tài sản.
Trong nhà vốn có một người giúp việc tên là Phân Na. Anh ta còn rất trẻ nhưng vô cùng thông minh, không kể là ra chợ buôn bán hay xuống biển nhặt trân châu, kinh doanh đủ loại không gì là không biết. Hai anh em làm thế nào để phân chia tài sản đây?
Họ quyết định phân tài sản ra làm hai phần. Một phần là tất cả đồ đạc, của cải trong nhà. Phần còn lại là người giúp việc Phân Na. Và hai anh em bốc thăm để chọn tài sản. Kết quả, người em bốc trúng thăm ghi tên người giúp việc, nên hoàn toàn không có thêm tài sản gì nữa cả. Anh ta đành dẫn theo người vợ của mình cùng Phân Na, với hai bàn tay trắng ra khỏi nhà. Bấy giờ gặp lúc nạn đói, người em chỉ được có mỗi người giúp việc, lại phải thêm một phần ăn, cuộc sống vô cùng khó khăn, khiến cho người em thật sự rất ưu sầu khổ não. Phân Na hiểu chuyện liền thưa với chủ: "Thưa ông chủ! Ông đừng lo lắng, hãy để con nghĩ cách cho ạ. Theo như con tính toán thì không đợi đến một tháng nữa, tài sản của ông sẽ gấp bội lần gia sản của anh trai ông cho coi”!
Người chủ nghe vậy rất vui mừng bảo rằng: "Nếu được như nhà ngươi nói, ta sẽ thả cho ngươi được tự do”! Lúc đó, vợ của người chủ có cất riêng một ít châu báu, cô ấy đưa hết cho Phân Na làm vốn buôn bán.
Thời may, hôm ấy nước thủy triều lên, người dân trong thành thi nhau ra biển nhặt củi. Phân Na mang số châu báu đến ngoại thành thì gặp một người ăn xin vác một bó củi, trong đó có một khúc gỗ quý trầm hương. Loại gỗ này rất quý và đắt, có thể chữa được bệnh nặng, chỉ cần một lạng thôi là đã có giá trị tới ngàn lượng bạc. Loại trầm hương này thỉnh thoảng mới xuất hiện trên thế gian một lần, thật là rất khó mà gặp được. Phân Na quả thật rất rành về hàng hoá và biết cách kiếm lời, liền dùng hai đồng tiền mua lấy khúc gỗ trầm hương của người ăn xin rồi mang về nhà cho ông chủ, sau đó phân ra làm mấy mươi khúc để bán. Thời điểm đó, có một vị trưởng giả bị bệnh nặng, cần hai lạng gỗ trầm hương để làm thuốc điều trị, đi khắp nơi tìm đều không có. Sau khi biết được tin này, Phân Na liền đem khúc gỗ trầm hương bán cho ông. Vì ông mua hai lạng, mà mỗi lạng là một ngàn lượng, vậy là thu được hai ngàn lượng vàng. Sau đó đem toàn bộ số trầm hương còn lại bán sạch, thu được vô số tài sản, nhiều gấp mười lần số của cải của người anh trai. Người chủ vô cùng biết ơn Phân Na, ông giữ lời hứa, trả tự do cho anh, muốn đi đâu cũng được.
Phân Na từ giã ông chủ, đi thẳng về phía Đức Phật, quỳ dài sát đất thưa với Thế Tôn: "Bạch Đức Thế Tôn, con xuất thân bần tiện, nhưng một lòng cầu học đạo, xin Thế Tôn từ bi hoá độ cho con được xuất gia theo Ngài". Bởi vì Phân Na vốn mang thân phận thấp kém, không phải là một người tự do bình thường, cho nên đối với sự tự do vô cùng khát ngưỡng, tâm cầu đạo vô cùng mạnh mẽ, kiên định”.
Đức Phật đồng ý nói: "Lành thay! Hãy đến đây Phân Na". Phân Na râu tóc liền rụng sạch, pháp phục trang nghiêm khoát lên thân, lập tức trở thành Sa Môn. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, thầy Phân Na chứng quả A La Hán, và đắc được lục thông. Phân Na thầm nghĩ: "Mình nay sở dĩ chứng đạo, tự tại trong sanh tử cũng là nhờ ơn đức của ông chủ, nay mình nên trở về hoá độ cho ông, và người dân nước Na Lê".
Thầy Phân Na trở về nước Na Lê, đi đến nhà người chủ để hoá độ cho ông. Nhìn thấy thầy, người chủ vô cùng vui mừng, mời thầy vào nhà ngồi, rồi chuẩn bị đầy đủ vật thực cúng dường. Sau khi thọ trai, rửa tay xong, liền bay lên không trung, phân thân biến hoá, một thân biến thành nhiều thân, thân trên phun nước, thân dưới nhả lửa, ánh sáng chiếu khắp nơi. Rồi từ trong không trung bay xuống, nói với người chủ: "Tôi nay có thể thành tựu được thánh đạo, cũng là nhờ ơn ông chủ thả tự do, tôi mới có duyên may đến bên Đức Thế Tôn cầu đạo học pháp, chứng đắc và giải thoát." Người chủ nghe xong liền nói: "Thần thông biến hoá của Đức Phật quả thật vi diệu, tôi ước mình cũng có thể được bái kiến Thế Tôn, được Ngài chỉ dạy".
Phân Na trả lời: "Ông chủ! Nếu ông thành tâm thiết trai cúng dường, Thế Tôn có đủ Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh, Ngài nhất định sẽ thọ nhận được thành ý của ông, nhất định đến đây nhận sự cúng dường". Nghe theo lời thầy, người chủ ngày đêm hết lòng chuẩn bị vật thực cúng dường, sau đó ông từ nơi xa xôi của mình thành tâm hướng về thành Xá Vệ đảnh lễ Thế Tôn (vì nước Na Lê gần với biển Nam, cách thành Xá Vệ nơi Đức Phật ở rất xa nên ông ở tại nhà đảnh lễ Thế Tôn). Ông quỳ dài xuống kính dâng hương thỉnh đức Phật, thưa rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, cung thỉnh Ngài đến nước Na Lê, quảng độ cho tất cả dân chúng ở đây!".
Sau khi Đức Phật biết được, liền cùng năm trăm vị A La Hán, dùng Thần túc thông bay đến nhà của người chủ thầy Phân Na.
Nhà vua và dân chúng nước Na Lê hết lòng cung kính hướng về nơi Đức Phật ngồi, năm vóc gieo sát đất đảnh lễ Ngài. Sau đó nhà vua lui về ngồi một bên, thành tâm cúng dường Đức Phật. Sau khi thọ trai, rửa tay xong, Đức Phật thuyết pháp cho nhà vua và toàn dân nghe, tất cả mọi người đều được thọ ngũ giới làm đệ tử Phật. Quốc Vương cùng tất cả quốc dân đứng dậy đối trước Đức Phật nguyện y giáo phụng hành, sau đó tán thán Phân Na: "Thầy Phân Na quả là một người có lòng trung thành, lúc còn ở đời, thầy cần cù làm việc, sau khi xuất gia lại có thể tu hành chứng đạo quả. Phẩm đức của thầy vô cùng thanh cao, lại biết nhớ ơn và đền ơn. Hôm nay thầy lại giúp mọi người có được duyên lành, cung thỉnh Đức Thế Tôn đến đây, khiến cho toàn dân trong nước đều có thể lãnh thọ giáo pháp Thế Tôn. Ân đức của Thầy quá to lớn, chúng con nên làm thế nào để báo đáp được đây thưa Thế Tôn?". Đức Phật tán thán thầy Phân Na và nói lên bài kệ, ý nghĩa như vầy:
"Tâm hư vọng phân biệt đã dứt trừ, không còn tạo khẩu nghiệp, cũng không tạo thân nghiệp, theo chánh đạo giải thoát, tịch tịnh về chốn Niết Bàn tịch diệt (nghĩa là Đức Phật tán thán thầy Phân Na đã đoạn tận phiền não chứng đắc Niết Bàn, chốn Niết Bàn này tâm cảnh vắng lặng, xa rời ngôn ngữ, không còn hư vọng phân biệt, các ác nghiệp tạo bởi lời nói và hành động đã không còn).
Xả bỏ tất cả tham dục, không còn chấp trước, ra khỏi tam giới, không còn chịu sự giới hạn, chia cắt trong tam giới nữa. Tất cả những ý niệm mong cầu đều đã bị đoạn tuyệt, đây mới đúng là bậc thượng thiện nhân (dân gian có câu: "Ai đạt đến sự vô cầu thì phẩm hạnh tự cao". Bậc A La Hán mọi sự mong cầu đều đã không còn nữa, thậm chí không mong có quả về sau, bởi nếu còn mong có quả là còn mong cầu. Ngay cả ý niệm kiếp sau tái sanh cũng đoạn tuyệt, đây mới chính là bậc thượng nhân chân chánh).
Không kể là ở nơi thôn làng hay chốn hoang dã, là đồng bằng hay núi cao, chỉ cần nơi nào có bậc A La Hán đi qua, tất cả chúng sanh nơi đó đều được hoá độ (nếu căn cứ theo lời "Kinh Xuất Diệu", thì nơi nào thánh nhân ở, nơi ấy đều có thiên thần hộ vệ. Nhờ phước đức của các bậc thánh mà có thể ngăn được các điều ác, tất cả tai ách đều không thể sanh khởi, điều này là nhờ vào uy đức và thần lực của chư vị mà có được).
Sự tịch tịnh an lạc của các bậc thánh như vậy, người bình thường không thể sánh bằng. Sự ấm áp bình yên, tự do tự tại như thế đều là do không còn tâm mong cầu mà có được, không còn bất kì một tham muốn nào, một mong mỏi nào (giống như niềm hoan hỷ an lạc, tịch tịnh trong Niết Bàn của các bậc thánh vậy, vì tất cả tham, sân, si, phiền não đều đã đoạn tận, nên thân dù ở trong đại chúng mà tâm thì vắng lặng yên bình như chốn hoang vu tĩnh lặng. Người bình thường chúng ta còn tham cầu, chấp ái, không thể li dục cho nên không thể có được sự thanh tịnh, tự do tự tại trong giải thoát như các bậc thánh).
Sau khi Đức Phật nói lên bài kệ trên, người chủ, nhà vua và dân chúng càng thêm hoan hỷ, tín thọ phụng hành, sau bảy ngày cúng dường, mọi người chứng được Sơ quả Tu Đà Hoàn.
Qua câu chuyện này chúng ta rút ra được bài học sau:
Vợ của người chủ đem hết của cải giao cho Phân Na làm vốn buôn bán, nhưng anh không vì tham lam mà cầm tiền rồi bỏ trốn, không có như vậy! Anh ta biết giá trị quý báu của gỗ chiên đàn hương, nhưng không ích kỉ tham lam, giữ cho riêng mình mà đem hết về cho người chủ. Người chủ cũng rất là giữ chữ tín, sau khi được tài sản đã thả tự do cho người giúp việc. Người giúp việc sau khi được thả tự do, không màng đến chuyện vợ con mà tìm đến bên Thế Tôn xin xuất gia học đạo. Anh ta vốn là một người mất tự do nên bấy giờ càng thêm trân quý giá trị của sự tự do, do đó tinh tấn tu hành chứng được thánh quả giải thoát, không còn sanh tử luân hồi trong ba cõi.
Lại nữa, thầy Phân Na biết ơn và đền ơn, không phải chỉ nghĩ đến sự giải thoát cho bản thân, mà sau khi chứng quả thì lập tức trở về hoá độ cho chủ nhân và người dân nước Na Lê, đền ơn chủ, ơn Tổ quốc và ơn Tam bảo.
Và khi người chủ thỉnh hỏi Đức Phật: "Chúng con làm thế nào để đền ơn cho thầy Phân Na?" Đức Phật trả lời: "Thầy Phân Na đã chứng được quả A La Hán, đã là người an lạc tịch tịnh, không còn tham cầu nữa, các vị không nên phiền đến thầy, hãy để cho thầy an trú trong Niết Bàn!". Cho nên, mọi người trong chúng ta chớ nên lo lắng quý thầy cô buồn chán nữa, suốt ngày đến trò chuyện, hoặc mời đi dùng tiệc... Không cần phải như vậy đâu, chúng ta nên tinh tấn tu hành, đem Phật pháp tuyên dương rộng khắp, đây mới chính là sự báo ơn chân chính nhất!
Ngoài ra, người giúp việc Phân Na tuy không có tài sản gì nhưng lại là một thiện tri thức vô giá. Nếu như chúng ta đối xử rộng lượng với mọi người, mọi loài thì chúng ta cũng sẽ nhận được sự đền đáp tốt đẹp. Đương nhiên chúng ta tu tập không phải để mong cầu được đền đáp rồi (mong sao cho mình và mọi người hiện đời tu tập an lạc, thoát ly sanh tử, hồi nhập Ta Bà độ hàm thức), nhưng cũng không quên đối xử rộng lượng với tất cả chúng sinh! Hy vọng mọi người có thể tự nhắc mình: Tâm lượng rộng một chút, cũng là biết ơn và đền ơn vậy.
Mong mọi người cùng nhau sách tấn tu tập.
Lớp giáo dục Phật Pháp Phước Nghiêm, ngày 01 tháng 12 năm 2012