Home > Khai Thị Phật Học
Liễu Sanh Tử
Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Diệu Âm, Việt Dịch


Phổ Hiền Bồ Tát dạy:

‘Thị nhật dĩ quá, mạng diệc tùy giảm

(Một ngày đã qua, mạng cũng giảm theo)

Người sáng mắt nhìn thấy quang âm mòn mỏi, thời gian mỗi ngày trôi qua, mỗi ngày giảm bớt. Nói một cách khác thì tức là ngày càng gần kề cái chết.

Ðạo nghiệp của chúng ta có tiến bộ theo thời gian hay không? Chỉ có chân thật tu trì mới có thể liễu sanh tử, xuất tam giới. Nếu chẳng thể liễu sanh tử, xuất tam giới thì đời này sẽ luống uổng. Cho dù niệm Phật tu phước thì cũng như Phật thường nói ‘tam thế oán’ (oán ba đời). Oán ba đời chẳng phải là chuyện tốt, đời này niệm Phật tu phước, đến đời sau hưởng phước thì sẽ trở nên hồ đồ; khi hồ đồ sẽ tạo tội nghiệp, sẽ chịu khổ báo. Những người quyền quý giàu to đều là do đời trước trong nhà Phật từng niệm Phật tu phước nhưng chẳng thể liễu sanh tử. Trong đời này có quyền thế, làm xằng làm bậy, khi tạo tội nghiệp so với những người thường đều nặng hơn rất nhiều. Thế nên chúng ta phải nhìn xa một chút, một người chân chánh giác ngộ phải lấy việc liễu sanh tử làm mục tiêu.

Muốn được liễu sanh tử pháp duy nhất trong các pháp Ðại thừa mà chúng ta dám chắc [mình có khả năng thành công] là pháp niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Nếu muốn chân chánh làm được thì phải ghi nhớ lời của Phổ Hiền Bồ Tát -- học Bồ Tát đạo, tu Bồ Tát hạnh. Mỗi khi gặp một vị thiện tri thức trong năm mươi ba lần tham vấn, Thiện Tài đồng tử đều hỏi về hai vấn đề này. Cái gọi là Bồ Tát đạo chính là cách giữ tâm, trong những bài giảng chúng ta thường nói: ‘Tâm, Nguyện, Giải, Hạnh phải giống như Phật’. Tâm và Nguyện tức là Bồ Tát đạo, Giải và Hạnh tức là Bồ Tát hạnh.

Học Phật thì phải học giống Phật, cho dù chẳng thể làm giống y hệt thì cũng phải làm chẳng khác nhiều lắm, như vậy mới gọi là học Phật. Trong thế gian có một số người chuyên làm việc ‘Phật học’ chứ chẳng phải là học Phật. Phật học là gì? Tức là có Giải chẳng có Hạnh, chỉ nghiên cứu Phật pháp như một thứ học vấn nhưng chẳng thể làm theo, họ chẳng có tâm này, và cũng chẳng có cái nguyện này, đó là Phật học; người có Tâm, có Nguyện khi hiểu được bao nhiêu thì họ sẽ làm bấy nhiêu, như vậy mới là một người học Phật. Vì vậy ‘học Phật’ có thể liễu sanh tử, ‘Phật học’ chẳng thể liễu sanh tử, chúng ta phải hiểu rõ hai việc này.

Kinh giáo trong nhà Phật là dung thông – viên dung, thông đạt vô ngại, cho nên thông [đạt] một kinh thì hết thảy kinh đều thông. Không những kinh giáo là dung thông, pháp thế gian, xuất thế gian cũng thông, vì tất cả đều từ chân tâm bản tánh của mình biến hiện mà thành, nó đều có cùng một căn nguyên, không có đạo lý chẳng thông. Tại sao chẳng thông? Chẳng thông là vì có chướng ngại, chướng ngại chính là mê hoặc, điên đảo, phân biệt, chấp trước, chỉ cần phá trừ chướng ngại thì pháp thế gian và xuất thế gian đều viên dung và thông đạt vô ngại.

Quán Thế Âm Bồ Tát hiểu rõ đạo lý này nên được đại tự tại. Tại sao Ngài có thể biết được? Do quán chiếu mà hiểu được. Quán chiếu nghĩa là gì? Lúc sáu căn tiếp xúc với sáu trần bên ngoài chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, chẳng có vọng tưởng, tất cả đều rõ ràng minh bạch, như vậy gọi là quán chiếu. Nếu có một chút ý tứ ở trong đó thì chẳng gọi là quán chiếu.

‘Quán chiếu’ thực ra là tự tánh tịnh, tức là ‘kiến văn giác tri’ (thấy nghe hay biết) của tự tánh, cho nên có thể thấy được chân tánh. Phàm phu mê mất tự tánh, chỉ dùng tình thức – nghĩa là tám thức, năm mươi mốt tâm sở, đó là ‘tình kiến’ – tình kiến nghĩa là như người ta thường gọi: ‘có xen lẫn cảm tình’. Cảm tình là gì? Tức là phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Ðem theo ‘kiến văn giác tri’ của những thứ này là kiến giải của phàm phu. Do đó có thể biết khi lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng thì là kiến giải của Phật, Bồ Tát. Kiến giải của Phật, Bồ Tát gọi là quán chiếu, gọi là chiếu kiến. Vì vậy nếu dùng kiến giải của phàm phu để tu hành thì tuyệt đối chẳng thể siêu việt lục đạo.

Phàm phu rất khó lìa khỏi tình kiến, nếu dùng tình kiến để tu học thì hết thảy pháp môn chẳng có pháp nào được thành tựu hết, chỉ có tu học Tịnh Ðộ mới có thể. Nhưng chúng ta nên biết tu Tịnh Ðộ là phải dùng công phu niệm Phật đè nén tình kiến, được vậy thì mới có thể vãng sanh. Nếu đè nén chẳng nổi thì không thể vãng sanh. Cũng có nghĩa là phiền não chưa đoạn, chỉ là tạm thời đè nén mà thôi. Nếu trong sát na lâm chung mà phiền não chẳng hiện lên thì sẽ thành công. Nếu phiền não khởi lên ngay lúc đó thì chẳng thể vãng sanh. Thật ra niệm Phật cũng là ‘quán chiếu’, người biết dụng công so với người tham thiền chẳng có gì khác nhau. Trong ‘Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương’ có dạy: ‘nhiếp trọn sáu căn’, nếu làm được nhiếp trọn sáu căn thì giống hệt như tham thiền; thí dụ chúng ta chỉ làm được ‘tịnh niệm tiếp nối’ mà chẳng biết làm thế nào để ‘nhiếp trọn sáu căn’ thì chẳng giống với tham thiền.