Pháp môn niệm Phật, chung nhiếp năm giáo, khắp trùm ba căn, là một thời giáo hóa của Như lai rất rộng rất lớn, là pháp lớn rất đơn giản dễ dàng. Ngàn kinh tán tụng, muôn luận tuyên dương, chư Phật mười phương khác miệng đồng âm mà khuyên bảo tin tưởng, cao tăng đại đức xưa nay nhất tâm hoằng dương, sự sâu xa của triết lý, sự rộng lớn của vấn đề nhiếp cơ, tám vạn bốn ngàn pháp môn, lấy đây làm thứ nhất. Bởi vì pháp môn khác đó đều nhờ tự lực mà đoạn hoặc chứng chơn; pháp môn tịnh độ này còn gồm cả sự nhờ Phật lực rộng vượt ba cõi. Cõi Ta Bà nhơ uế trầm trọng, cần đến địa vị Thập tín mới ra khỏi vòng khổ; cảnh giới của Cực Lạc hơn hẳn cõi Ta Bà, niệm Phật vãng sanh chỉ chín phẩm cũng thảy đều “bất thối”. Từng nghe tôn giả Xá Lợi Phất phát tâm từ thời đức Phật Đại Thông, đến nay trải qua nhiều kiếp số lượng nhiều như hạt bụi, hãy còn ở địa vị (thanh văn), có thể thấy rằng cái khó của sự tự lực tu chứng ở cõi này; Huống hồ hiện tại cõi này nhằm lúc mạt pháp, tâm tánh chúng sinh chướng dày huệ mỏng, phước nhẹ và nhơ uế nặng, muốn nhờ tự lực để tu chứng, lại là khó trên khó. Trong kinh Đại Tập, đức Thế tôn chỉ dạy đại chúng:
“Thời mạt pháp ức ức người tu hành, hãn hữu một người đắc đạo, chỉ nương nơi niệm Phật, sẽ được qua khỏi sinh tử”.
Bậc cổ đức cũng có nói rằng:
“Học đạo các môn khác, giống như con kiến lên ở núi cao; niệm Phật vãng sanh như buồm đi thuận gió”.
Kinh Phật lời Tổ, khăng khăng khuyên tu tịnh độ niệm Phật, chúng ta sao được cô phụ lòng Từ bi của Phật Tổ, mà chẳng chịu đọc và nghe để sanh tín tâm, phát nguyện niệm Phật, cầu sanh về thế giới Cực Lạc ư!
Từ xưa đến nay người tu tịnh độ, pháp môn trì danh niệm Phật, được thành tựu rất nhiều, pháp môn đó rất là thẳng tắt, rất là viên đốn, có thể vượt bực, chẳng cần trải qua tu lần hồi mà có thể đốn siêu. Từ tiểu học có thể thẳng lên đại học, mà phương pháp vả lại rất đơn giản, khiến người chẳng dám tin, lại chẳng thể chẳng tin, thật là chẳng thể nghĩ bàn.
Tu hành, hành là hành vi sinh hoạt, trong hành vi sinh hoạt khó mà tránh khỏi chẳng phát sinh sai lầm rất nhiều, sửa cho chính lại những hành vi sai lầm, gọi là tu hành. Năm trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc) đều là hư giả, chẳng phân biệt thì có thể thọ dùng, chẳng thể ái nhiễm càng chẳng được chấp trước.
Tu hành học Phật, trước nhất cần làm cho rõ ràng, tin Phật là tin Phật, mà tu hành học Phật là tu hành học Phật!
Tin Phật, là đọc một vài quyển kinh, lạy một vài hiệu Phật, hoặc niệm một vài tiếng Phật, ngồi tỉnh tọa giữ năm giới, làm chút việc thiện, đời sau sinh lên cõi trời hoặc nhà giàu có. Cầu giàu có, cầu bình an, cầu gia hộ... Dính mắc nặng nề cuộc sống vật chất, hưởng năm dục của nhân gian, ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, tận tình ăn uống vui chơi.
Tu hành học Phật. Là cần phải nương theo lời dạy, như pháp mà tin thọ chịu làm, ngoài vấn đề trì giới (các ác chẳng làm), bố thí (các thiện vâng làm), còn cần phải tự thanh tịnh ý, nhẫn nhục, tinh tấn, ăn toàn chay, thọ trì một phương pháp đó, tức là phương pháp đó cần phải chuyên tâm nhất ý. Ra khỏi luân hồi ba cõi, sáu đường lìa khổ được vui cho đến thành Phật! Niệm Phật, khi mạng chung vãng sanh thế giới Cực Lạc chú trọng đến cuộc sống tinh thần, ít ham muốn và biết đủ (thiểu dục tri túc), thì dẫn tới sự đầy đủ, cuộc sống đạm bạc giản dị, sẽ đầy đủ đối với các hiện tượng và tình huống, tùy nghi với những gì mình gặp mà được bình an thì “lý” sẽ được, trên không hổ thẹn với trời, dưới không dối gạt với đất, không tranh, không cầu, không vọng lấy, không vọng dùng, tự nhiên tự tại, yên ổn vui vẻ.
Nếu tu hành học Phật mà còn dính nặng nơi cuộc sống vật chất, như thế, cũng học mà không làm sao ra khỏi căn nhà danh vọng đâu!
Tu hành học Phật, cần có CHÁNH TÍN, không được không chánh tín! Chánh tín rất là trọng yếu! Chánh tín thì vãng sanh thế giới Cực Lạc. Không chánh tín mà niệm Phật, tu phước, thì đời sau giàu có, giàu có thì sinh cuộc sống hưởng thụ, dễ làm ác, tạo các nhân xấu; người không chánh tín, đời này niệm Phật, đời sau hưởng phước, đời thứ ba phước hết thì rơi rớt vào ba đường ác! Đây gọi là làm oán ba đời. Bởi vậy chúng ta tu hành học Phật thì nên sanh tín tâm chân chánh! Không được sinh tín tâm chẳng chân chánh. “Chánh tín” và “chẳng chánh tín” khác xa nhau như trời và vực thẳm.
Tu hành học Phật không nên mê ở nơi nhiều kiểu dáng nhiều trạng thái của hiện tượng vật chất, quên bẵng đi cội nguồn sinh mạng là ở nơi cõi tinh thần. Kinh Phật thường nói: “chúng sinh bội giác hiệp trần” (quay lưng lại với sự giác ngộ mà đi hợp với trần lào khổ lụy), chỉ ra là buông bỏ sự giải thoát mà đi tìm cầu sự phú quí vinh hoa. Cũng vậy, người tu hành nếu chẳng muốn đánh thức Phật tánh ở bên trong, cũng chỉ là ưa thích cái xấu tệ cạn cợt trọn đời của sắc thanh hương vị xúc pháp ở bên ngoài. Cũng cần biết bởi vì sao danh vọng, sự nghiệp, cơ đồ, hiển hách, cũng có một ngày rơi rớt lụn bại; bởi vì sao quyến thuộc ân ái thân mật cũng có lúc phân ly.
- Siêng năng tu hành học Phật, trì danh niệm Phật, tức là có phước khí lớn (thiện căn lớn). Người phước mỏng (ít thiện căn) là “hữu thỉ vô chung” (có khởi đầu mà không có cuối cùng), chỉ hơi tin Phật. Người không thiện căn là người không tin tam bảo; càng thậm tệ hơn là không những chẳng tin rồi, mà còn hủy báng tam bảo!
Tu hành, tức là phương pháp xem xét những sự sai lầm mà chúng ta đối với nhân sinh vũ trụ; pháp tưởng, pháp nói, pháp làm, cũng vậy, cần nên sửa đổi cho chân chính lại. Cũng bao hàm sự kiểm thảo điều chỉnh, đối kháng chính ta, khống chế dục vọng và cân bằng thân tâm.
Nhưng chúng ta cũng nên chấp nhận những nghi thức hành vi bên ngoài lại sinh ra tác dụng huân tập bên trong. Ở lúc hành trì công khóa sớm tối, chẳng phải là khiến cho tâm mình an định, chuyên chú ở nơi khóa tụng hay sao? Chúng ta lúc giữ giới nắm giữ trạng thái của tâm ta ra sao ư? Là một thứ giới điều, một loại hình thức giới luật đang làm. Kỳ thật giới luật là phạm vi ngăn ngừa cần thiết sự làm ác của chúng ta, giới luật giúp đỡ chúng ta giải thoát. Giả như người nào đó cảm thấy rằng giới luật là một vấn đề trói buộc, như thế là biểu thị người đó còn muốn làm việc xấu, đây là hình thức bên ngoài có công năng nhất định của nó, chỉ xem chúng ta dùng trạng thái của tâm thế nào để xử lý nó.
Tu hành học Phật, xưa nay là việc của chúng xuất gia, chúng tại gia chỉ tin Phật trồng nhân thiện, được phước báo trời người, đời sau hưởng phước. Chúng tại gia cũng muốn học Phật tu hành - niệm Phật! Vãng sanh thế giới Cực Lạc, thân đó tại gia “Tâm” thì cần phải xuất gia, không thể thân tại gia mà tâm cũng tại gia (thường là nhớ nhung việc gia đình, việc trên xã hội, dục lạc hưởng thụ), nên cần phải công phu nhiều hơn chúng xuất gia một chút mới chế được tâm. Nhân vì chúng tại gia có nhà, có nhà rồi thì có thân bằng quyến thuộc - bởi vậy mệt nhọc suy nghĩ, lại có việc đời - bởi vậy phân tán nguồn tâm, lại có danh lợi - bởi vậy biến động nơi ý, lại có họa hoạn bởi vậy lo buồn ở chí, cho nên thân và tâm không dễ gì yên tịnh được, lại chẳng có thể bàn đến sự thanh tịnh của ba nghiệp thân, miệng, ý được.
Nhà, thực tại là nhân duyên phiền não! Có nhà rồi lại nên xả bỏ việc thế tục mà tu hành, thực tế thì cũng không phải là mỗi người đều có thể làm được hết. Chúng tại gia có nhà, nếu có thể dùng “không nhà” để nhìn, thì nhà không thể là cái trói buột, xét ngược lại thì rất nhiều phiền não! Nếu là người không gánh vát sinh kế của gia đình, bỏ việc đời, chẳng khổ nhọc nặng, bỏ việc kinh doanh lo lợi, có thể chuyên tâm tu hành rất tốt!
Tu hành không phải là phân biệt trên hình thức xuất gia hay tại gia, mà là phân biệt trên tâm địa. Người có thể xả bỏ sự suy nghĩ và công việc thế tục như: phú quí, vinh hoa... các dục vọng, thì cùng với người xuất gia như nhau; người xuất gia nếu không xả bỏ suy nghĩ và công việc thế tục, vẫn như người tại gia. Nên biết rằng tu hành cần ở trên tâm địa, không phải ở trên hình thức mà thôi.
- Vì sao học nhiều kinh luận như thế, là bực cao nhân biện tài vô ngại, ngồi yên tham thiền đã đạt đến tam thiền tứ thiền, người tay nắm tràng hạt niệm Phật, mà ra không khỏi ba cõi (không được vãng sanh thế giới Cực Lạc!). Tức là miệng nói tu hành, nhưng chưa đem tâm tin Phật để tu hành; Nếu hiệp với kinh điển, ngay khi ngồi yên đứng dậy, tiếng niệm Phật liền dừng, tức thì bề bộn những sự so tính đuổi kéo tâm ta, tức là bận rộn những sự việc gia đình, tức là bận rộn việc trên xã hôị, bận rộn chuyện ăn uống vui chơi, dục vọng rất là nhiều, rồi vọng giữ lấy, vọng sử dụng. Nghiên cứu kinh điển, lúc niệm Phật, ngồi yên, tâm mới chỉ được chút ít sự thâu lấy, vẫn còn bị hai cảnh thuận nghịch động chuyển, bị tình thức bủa vây, bị ái chấp trói buột, không thấy rõ tình đời, buông không được muôn duyên việc tục, lúc mạng chung tâm sinh điên đảo, ra sao được ba cõi sinh tử!? Vãng sanh thế giới Cực Lạc ư! Ngay cái thiện rốt cuộc cũng khó đạt được!
Gặp được việc tốt, thấy được việc tốt, nghe được việc tốt, tức là cảnh thuận. Gặp việc xấu, thấy việc xấu, nghe việc xấu, tức là cảnh nghịch. Ở cảnh thuận thì hớn hở vui cười, ở cảnh nghịch thì u sầu khổ sở; tức là bị hai cảnh thuận và nghịch chuyển. Nếu có thể ở cảnh thuận không vui vẻ, ở cảnh nghịch không phiền toái, thuận nghịch đều không khởi tâm động niệm; vì ngay nơi khởi tâm động niệm thì lập tức bị hai việc thuận nghịch chuyển.
Vui giận, ưa ghét, ham muốn, đều là một chữ TÌNH; nếu làm được nhữung việc như: vi phạm không tra xét, xúc phạm không giận dỗi, làm tổn thương không oán hận... tiến đến coi những việc đó như không, ngược lại thương xót tâm ngu si; nếu có thể ngộ được lý này thì tâm thường thanh tịnh, như TỊNH ĐỘ (cõi tịnh) vậy.
Cha mẹ, con cái, công danh, tiền bạc giàu có, văn chương nghệ thuật, ngọc ngà của báu... đều là những thứ yêu thích. Nếu làm được việc có nó cũng như không có nó, chẳng nghĩ tưởng về nó; bởi vì phàm là có tâm một khi ÁI tồn tại, thì lúc lâm chung bị cái ÁI này dắt dẫn, theo những việc trước mà luân hồi sáu nẻo. Do đây có thể biết một chữ ÁI chính là cội rễ của sinh tử, là một trở ngại lớn cho việc vãng sanh.
Người học Phật, trong tâm của đại đa số mọi người cũng đều muốn được tụng kinh, tham thiền, lạy Phật niệm Phật, ăn chay, tức là tu hành; chẳng biết rằng cũng còn bao quát cả những hành vi sửa đổi chỉnh đốn, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn trong cuộc sống thường ngày cũng tức là “đạo đức”, nó sửa đổi nuôi dưỡng làm cho tịnh sạch và vương lên, đều là sự cần thiết đối với hành vi chính mình và làm cái việc sửa đổi chỉnh đốn thích đáng. Giả như những hành vi này đã làm tổn hại đến chúng sinh và mình, hoặc giả đã mâu thuẩn đến đạo đức, phép tắc, chuẩn mực của xã hội đương thời, nơi đây.
Trong vấn đề học tập Phật pháp, cải tiến chính mình từ trong cuộc sống thường ngày, khiến cho mình cùng với ranh mức con người trên xã hội có được sự quan hệ càng hài hòa hơn, đây cũng là tu hành, mà vả lại càng dễ làm cho mọi người và gia đình tiếp nhận.
Tu hành là cần tự tại, nhìn cho rõ, buông cho hết, mới có thể được lợi ích. Phú quí, vinh hoa, ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, ăn uống vui chơi tận tình, những việc này là chỗ vui ưa tìm cầu của người đời, người tu hành cần nên bỏ lìa những cái này đi, bởi vì phú quí vinh hoa... những cái đó làm ngăn ngại sự an bình và yên tịnh của thân tâm người tu hành, nó làm cho chẳng được tự tại và giải thoát.
Việc mặc, không được đẹp đẽ, không được hợp thời trang thì lại buồn buồn không vui; việc ăn, mà có chút ít không ngon miệng, không hợp ý thì cho là không ngon, ăn không được; ở phòng bình thường đi không có xe tốt thay vì đi bộ lại nói là không sang trọng, mất thể diện; những vấn đề này tức là không tự tại. Ở chỗ thuận thì mặt mày hớn hở, ở chỗ nghịch mặt ủ mày chau, đây tức là nhìn không rõ. Tham ái dính mắc nơi tiền bạc giàu có, danh vọng, quyền thế, con cái, nam nữ v.v... Đây tức là buông không rời. Không tự tại, buông không rời, nhìn không rõ, đều là việc ngăn trở con đường ra khỏi ba cõi.
Tu hành là tác dụng trong cuộc sống thường ngày. Hiểu và tu hành không thể ăn khớp với nhau, thì cũng như: nói ăn, đếm của báu, bánh vẽ làm sao đỡ đói!
Chẳng xét là tại gia hay xuất gia, mà mục đích rất chủ yếu là mong cầu tu hành được chuyển mê khai ngộ, ra khỏi ba cõi, lìa khổ được vui... cho đến thành Phật.
Do từ việc nghe kinh, tụng kinh, chẳng biết dùng bao nhiêu thời gian, ngược lại biết rất là nhiều danh từ Phật học, thậm chí còn có thể diễn thuyết công khai, miệng nói ra những Phật pháp chính mình xem hiểu thông suốt như nước chảy mưa rơi; Nhưng Ở trong cuộc sống thường ngày không cách nào đem những Phật pháp, rõ ràng là đạo mà chính mình đã nói ra được ấy, để ứng dụng, ra sức hành trì, như thế, giảng thì mặc giảng, làm thì mặc làm, không cách nào ở lúc làm việc và đạo lý mình giảng thích họp với nhau; như ngồi “tĩnh tọa”, qui định chính mình có thể ngồi rất lâu vững vàng không động, nhưng chỉ cần một khi đứng dậy, thì vẫn vậy, theo danh tìm lợi, không có phương pháp nào đối với cảnh mà chẳng khởi niệm! Tay lần tràng hạt, tùy lúc tùy nơi niệm Phật, thế nhưng trong tâm vẫn vậy, tính toán so đo: giàu có, danh vọng, quyền thế v.v... Nếu cách này mà học Phật tu hành thì chỉ trên sự nghiên cứu lý mà thôi, đều chẳng thể lấy ra được một chút nào sức ứng dụng mà tu hành, ra ba cõi cũng chỉ là tưởng tượng mà thôi!
Tinh thần của Phật pháp; Chơn nghĩa của Phật pháp cùng với cách nhìn của người đời chẳng đồng, nhận biết cũng chẳng đồng. Người đời cho là quí báu, Phật pháp cho là tầm thường, như là châu báu ngọc ngà v.v... Người đời tham ưa, Phật pháp xả bỏ, như là: tiền bạc, giàu có, danh vọng, nam nữ... Do Phật pháp chẳng theo thế tục, nên dẫn không được người đời hứng thú học tập, chẳng giống với ngoại đạo là theo cách thế tục để dụ dẫn và mê hoặc con người.
Ở trong con đường tu trì ấy, cần phải biết rõ cái để tu trì ấy là “TÂM”, tu trì là phải dùng cái tâm thế nào để tu, là tâm phàm hay tâm đạo? Là tâm phàm đúng mức chỉ chẳng qua có thể tự cứu lấy mình thì tính ra chẳng sai; là tâm đạo quyết cần phải tiếp nhận kiểm tra cái đạo, cái đức, cái tâm của vô tình đó, cần biết tâm con người tức là đạo tràng rất nhỏ, không phải sao? Nếu phân biệt chánh tà, thiện ác, tốt xấu, làm và không làm, tất cả của tất cả đều là ở nơi TÂM, lặng yên khéo suy nghĩ một chút, thì có thể biết lời nói chẳng ngoa, lặng yên sẽ có thể biết tâm mình làm cái gì, quên đi tất cả tạm thời thì sẽ lặng yên sẽ dễ dàng một chút.
- Sự khoái lạc đời người là việc ngắn ngủi tạm thời, thế giới Cực Lạc mới là niềm vui vĩnh hằng. Mục đích của tu hành là cần giải thoát, vượt ra ba cõi, vãng sanh Cực Lạc; con người đều có sinh, lão, bệnh, tử, có những phiền não, mê hoặc các việc, mà ngay lúc chúng ta giải quyết những phiền não, mê hoặc của chúng ta thì gọi là giải thoát, giải thoát những vấn đề trói buột, đoanh vây, khổ đau, mê muội, những vấn đề này đều là việc mà người tu hành cần phải nổ lực. Tu hành là giải quyết những chướng ngại và vấn đề trên tâm linh, cần phải để cho con đường đạo của nội tâm được thông suốt. Tu hành chẳng phải chỉ chú trọng công đức ở bên ngoài, mà sơ sài lơ là công đức bên trong. Công đức bên ngoài là trì giới, bố thí v.v... Công đức bên trong là tâm thanh tịnh, bình tĩnh, bình hòa, bình đẳng. Nghĩ đông nghĩ tây, kiểu này cũng tốt, kiểu kia cũng cần, dục vọng càng nhiều, tâm thanh tịnh không? Ngay lúc một con người phiền não, thử nói học có bao nhiêu đức hạnh? Lời nói, hành vi, cử chỉ biểu hiện ra cũng không có sự tự nhiên bình tĩnh, bình hòa rồi, huống nữa là lúc họ giận dữ thì lời nói có thể nhu hòa được không? Công đức bên ngoài cần phải LÀM, công đức bên trong càng cần phải TU.
Tu học có hai vấn đề trọng yếu: 1 Tu huệ, 2 Tu phước.
Tu huệ là: Niệm Phật, ngồi yên tham thiền, tụng kinh, trì chú v.v... được ĐỊNH phát HUỆ.
Tu phước là: Một chút việc ác cũng không nên làm, còn việc thiện nên làm nhiều, thanh tịnh tự tâm, nhẫn nhục, ăn toàn đồ chay.
Học Phật tu hành là nên tu cả hai PHƯỚC và HUỆ. Chỉ tu phước mà không tu huệ, hoặc chỉ tu huệ mà không tu phước, thì ra không khỏi ba cõi, vãng sanh thế giới Cực Lạc không được!
Phước và Huệ cũng như hai cánh của một con chim, nếu thiếu một thì không thể bay lên!
Ngài Vĩnh Gia Thiền Sư nói rằng:
“Bố thí, trì giới, sinh phước trời; Cũng như bắn mũi tên lên hư không, hết lực rồi tên lại rơi xuống; Chuốt lấy đời sau không như ý”.
Giả sử cầu được phước báo trời người, hưởng tột cùng phú quí vinh hoa, cũng chỉ là phước nhơ (trong năm trược), một ngày kia hưởng hết rồi, lại gồm được cái gì? Cái hoạn của tâm là ba độc (tham, sân, si), chỗ thọ là năm dục (tiền tài, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ); Như thế chính thật là nhân khổ. Trong kinh dạy rằng:
“Tiền sắc danh ăn ngủ, năm việc gốc địa ngục, năm dục nếu chẳng trừ, trần lao không ra khỏi”.
Người tu hành tịnh nghiệp tâm ham muốn riêng tư chẳng nên quá nhiều, nếu như ba nghiệp (thân, miệng, ý) không thanh tịnh là chuốt lấy cái nhân họa vậy! Cho nên nói rằng: không vì tật bệnh đau khổ mà phát tâm không vì cầu hộ giúp nhà cửa của tiền mà phát tâm, không vì để tăng thêm phước thọ mà phát tâm; không vì báo đáp tình thân mà khởi niệm phát tâm. Chỉ có thể vô tâm ở nơi muôn vật, thì ngại gì muôn vật vây quanh, phàm phu có các món ác duyên trói buột, nên chẳng dễ an tâm tu hành. Chỗ nói đến của Phật pháp là “tâm pháp”, tâm không an thì có sự trở ngại, không thể tu hành, nên nói là buông hết.
Phàm phu do kiến chấp về NGÃ (ngã kiến) sâu dày, phiền não nhiều đời thô nặng, nên chướng ngại về cái “biết”. Kế đến là chấp người chấp ta, chấp pháp chấp ta. Như thế hai chướng (phiền não chướng, sở tri chướng) và hai chấp, lại thêm tham dục, sân nhuế, si mê, nhân đó mà tạo nghiệp, trôi trong sinh tử, dập vùi nơi biển khổ. Cho nên cần phải có cái biết đúng đắn chân chánh (chánh tri) và cái nhìn thấy chân chánh (chánh kiến). Hai tâm ghét và yêu đều là bất tịnh. Như nghịch duyên, oán duyên, kết oán với người, nhìn là thù địch muốn đánh muốn dìm; còn thuận duyên, thân duyên, xem như thân thuộc sinh tâm yêu mến; Riêng có không oán không thân, duyên chính giữa, xả thọ không khổ không vui. Còn nếu tình cảnh biến đổi, chuyển yêu thành ghét, thì sự yêu đó ở đâu? Như vậy xưa nay chẳng thật, bởi sao cảnh duyên không tốt xấu, yêu ghét khởi nơi tâm, cho nên chớ nên tin tâm mình! Chúng ta thân nghiệp báo, coi như nghiệp báo nặng mà thọ chịu nhẹ, thảng nhiên chịu đựng tất cả giày vò, chỉ hay chuyển tâm niệm Phật, hết báo thân này, lại sanh vào nhà “Pháp vương”. Còn đối với gia đình so tính, con cái, giàu có tiền bạc... hay danh vọng, sự nghiiệp... trên xã hội, các việc khổ não, nhiều trở ngại cho tâm, thì phiền não theo đó mà sinh khởi, tâm không được an ổn.
Người đời đều có tâm, có tâm thì ắt phải có niệm, khởi niệm thì chắc chăÙn phải có “nhiễm” và “tịnh”, nhiễm là nắm lấy sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp); Tịnh nghĩa là không nắm lấy sáu trần. Quán sát lúc ban đầu do tâm niệm của chúng sinh mà sinh ra; cho nên đức Phật nói: “ba cõi chỉ nơi tâm, muôn pháp chỉ nơi thức”. Nên phải cẩn thận nơi niệm ban đầu, chế ngự tâm nhiễm, nếu chẳng giữ sáu trần tức là không có nghiệp, từ đó mà được vô tướng, cho nên một niệm không sinh thì sáu đường (Trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỉ, xúc sinh) đều tiêu mất, cắt đứt luân hồi. Hạt giống nghiệp lại dứt mà ra khỏi ba cõi vậy.
Lợi ích của việc học Phật có thể nói từ hai phương diện:
Phương diện chính mình: Người đã học Phật, có thể nương theo lý Phật mà chiếu xét tư tưởng và hành vi của mình, như có việc bất chánh thì đưa nó vào chánh, không qui củ đưa vào qui củ (nề nếp), tu dưỡng đối với thân tâm của mình, rất có ích lợi, là triết học cần thiết cho việc xử thế.
Phương diện người khác: Học Phật có thể đem nhân sinh quan riêng tư vì ta mà cải đổi làm “vô ngã đại bi”, nhân sinh quan hy sinh vì người, mình và người cả hai đều lợi, làm tiêu chuẩn tối cao về đạo đức của nhân loại, chỉ có người học Phật mới có thể hoàn thành.
Vì sao phải học Phật? Học Phật chắc chắn có chỗ nhận thức đối với “thật tướng” đời người, có nhận thức thì chắc chắn có sự bảo bọc nuôi nấng, có sự bảo bọc nuôi nấng quyết chẳng nôn nóng, thì gặp rất nhiều vấn đề khó khăn trước mắt, như không mỹ mãn về cuộc sống, khổ rầu hoàn cảnh, khuyết điểm hạn cuộc của xã hội hiện thực, phiền não việc người giao tiếp cái xấu, đều được dẫn dắt từ Thánh trí, đều chỉnh lại tâm cảnh chẳng bình ổn và hài hòa của mình. Cũng nói thêm rằng, nhân sinh vũ trụ rất nhiều vấn đề lớn, người học Phật mà nghiên cứu Phật học thì đều có thể hiểu rõ được triệt để. Học Phật không chỉ tìm kiếm hiểu rõ trong hoàn cảnh cuộc sống hiện thực, còn phải tìm kiếm trên vấn đề từ sinh tử để giải thoát viên mãn, tìm được chốn về an lạc rốt ráo của đời người.
- Tu lúc bình thường cuộc sống hàng ngày cần bình ổn và điềm đạm, tâm tình đối cảnh cần phải bình tĩnh.
Bình đạm: Khổng Minh Chư Các Lượng thường nói rằng: “Đạm bạc để sáng Chí, yên tĩnh thì thấy được xa, tất cả thuận ở nơi tự nhiên”. Con người, có thể bình thường đạm bạc qua một đời này, là một hạnh phúc lớn không gì hơn.
Bình phàm: Gọi là bình phàm, không giống như thế tục tầm thường, chỉ là chẳng cầu nghe thấu đối với lời khen thế tục tầm thường, mà là hết lòng hết sức, cày cấy lặng lẽ mà chẳng hỏi thu hoạch thế nào! Người đời gọi là “Trong lòng nuôi chí lớn mà ngoài mặt như người thường”.
Bình thường: “Người tầm thường phước nhiều, bình thường là quí báu”, thật là một câu danh ngôn chí lý; bao nhiêu người đeo đuổi mục đích cao xa, một đời chẳng đạt được những ham muốn cảm thọ đầy đủ chính ta. Ngạn ngữ có câu rằng: “Bò lên càng cao, té ngã càng nặng”.
Bình tĩnh: Gọi là bình tĩnh, bèn là một thứ trạng thái tâm tình; thật chẳng phải là “đêm khuya yên tĩnh, muôn tiếng lặng yên”. “ngọn cỏ chẳng sinh” “trăng sáng sao thưa”, cũng chẳng phải là “nước dừng trong suốt, trọn không sóng nhỏ lăn tăn”; Trái lại là để chỉ một thứ định lực, nghị lực, công lực, cũng tức là tu thân dưỡng tâm, còn gọi là nuôi dưỡng công phu. Chỉ có như đây mới có thể “Trang trọng cung kính tự cường, gặp biến động không kinh sợ, cẩn thận toan tính có thể cắt đứt”, núi Thái lở sạt trước mặt mà vẫn không biến sắc.
Cho nên nói rằng, bình thường hàng ngày làm người phải có phong cách mô phạm, cần nên phù họp phạm trù đạo nuôi sống tâm linh, tu dưỡng tâm lý phải chú trọng hơn sinh lý, tâm lý nếu không khỏe mạnh thì dẫu trăm vạn, ngàn vạn, ức vạn, mua bán giàu có cũng khó mà mua được sự khỏe mạnh tâm lý, mong cùng cố gắng nhắc nhở nhau! Quá cầu phú quí, chẳng bằng tùy sự việc mà an, biết đủ thì thường vui, chỉ cần biết đủ và ít ham muốn, thì có thể được vui vẻ.
- Sao gọi là Tu Hành? Tu hành tức là “chúng sinh tự tâm thệ nguyện độ” tức là tự tánh mỗi người tự độ, cần rõ hiểu là chúng sinh của tự tâm - tức là các thứ tâm bất thiện: Tâm tà mê, tâm ác độc, tâm cuồng vọng, tâm đố kỵ... những tâm bất thiện này đều là chúng sinh ở trong tâm, mỗi người đều cần tự tánh tự độ, đây gọi là “chơn độ”.
Sao gọi là “tự tánh tự độ” ư? Tức là nắm lấy chúng sinh si mê, phiền não, tà kiến còn tồn tại ở trong tâm mình, dùng “Đạo đế” trong bốn chánh đế (Chánh kiến của tám chánh đạo), thấy hiểu chính xác để độ thoát chúng nó, tức là tiêu trừ hóa giải phiền não ở nơi vô hình. Diệt sạch tất cả bất thiện, phát tâm bồ đề, xa lìa tâm niệm nhơ uế lộn xộn, khiến trong tâm thuần khiết.
- “Tu hành” tức là “tu chánh hành vi”, hành vi chúng ta đã có những sai lầm, sai lệch, sửa cho chính lại những lỗi sai lầm, lệch lạc ấy, đây tức gọi là: Tu hành. Hành vi của chúng ta trong cuộc sống ngày thường rất nhiều rất nhiều, Đức Phật dùng phương pháp qui nạp đem nó phân làm ba loại lớn: Thân miệng ý. Thân là hành vi của chúng ta. Miệng là lời nói. Ý là tư tưởng, là thấy hiểu. Dùng ba loại lớn này thì đều đã bao quát hành vi của chúng ta, ba loại lớn này nếu có tổn hại, bất lợi, lỗi lầm, sai lệch đối với chúng sinh, thì đem chúng mà sửa đổi cho chân chính trở lại; Đây gọi là tu hành.
Tu hành là nương nơi qui củ mực thước của Phật pháp, để tu trì học tập, dựa trên qui củ chân chánh của Phật pháp, tịnh hóa thân tâm của mình, đem toàn bộ những tập khí vô minh của sự sai lầm bất chính đều sửa đổi cho chân chính trở lại, mà đạt được mục đích tột cùng của sự tu hành là THÀNH PHẬT!
Phật pháp chú trọng là ở sự thực tiễn, là hiểu, làm và tiến bộ, chẳng lẻ loi chỉ là sự hiểu biết trên chữ nghĩa, mà còn phải làm trên hành vi. Nếu chỉ nói mà chẳng thể làm, thì dẫu hiểu đạo lý ở trong đầu có đại tạng kinh, cũng vĩnh viễn không thể giải thoát. Nếu miệng nói, lại còn có thể thực hành thì mới hữu dụng.
Đường tắt của sự tu hành không những cần khắc phục những vấn đề hữu hình như: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ... mà bên trong còn phải chế ngự ngàn vạn tà ma trong tâm của mình như: Tham, sân, si, mạn, nghi, tà, đố, hận, giải đãi, dục vọng... những phiền não của vô minh, những tà ma còn đáng sợ hơn những chướng ngại hữu hình. Tu hành là vì khắc phục phiền não ma chướng ở trong nội tâm chúng ta và tất cả những nhiễu loạn và chướng ngại bên ngoài, đồng thời còn phải nhẫn chịu những sỉ nhục và khổ nạn từ ngoài đem đến.
Thường niệm, tư duy và quán sát thiện pháp, nhiên hậu mới có thể phát sinh tác dụng chân chánh về thiện pháp. Thường niệm thiện pháp, thời khắc nào cũng chẳng nên quên mất. Tư duy thiện pháp thường tồn tại trong tâm, trong đầu, xem chừng thiện pháp mình làm, đối với mình với người khác là có ích hay không? Quán sát thiện pháp là cần phải kiểm tra sự khởi tâm động niệm của chúng ta từ sự nhìn lại và xét nét trong nội tâm, không để cho niệm đầu bất thiện sinh khởi.
Phần lớn người tu hành và không tu hành, thì phân biệt ở nơi ba nghiệp: Thân, miệng, ý. Nếu thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý khởi niệm ác, tức là người không tu hành.
- PHẬT, là người tu hành, không phải thần. Hãy nhìn khắp toàn thế giới các tôn giáo, trừ Phật giáo ra, không có giáo chủ một tôn giáo nào là chẳng lấy cách thức tự phong cho là “Thần siêu nhân”.
Giáo chủ Phật giáo là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cho là tốt xấu, họa phước, thành bại, vinh nhục, đều quyết định ở nơi hành vi chính mình, thiện và ác do sự nổ lực hay không thôi. Không có một cá nhân nào có thể chịu sự đề bạt lên thiên đường, cũng không có một cá nhân nào có thể ngang chướng mà xô đẩy người thiện rơi vào địa ngục được. Khen tốt hay ca tụng thì không thể lìa khổ được vui đâu, chỉ có thể dẫm lên sự thật là tu thân dưỡng tánh, mới có thể khiến cho nhân cách của mình được tịnh hóa thăng hoa, khiến cho mình hưởng thọ được niềm vui của sự được lý an; Con người phân ra kẻ thượng trí, người trung bình và hạng hạ ngu, nhưng hễ thỏa đáng (đúng) căn cơ thì hiệu quả, do đó Phật giáo là tôn giáo tín ngưỡng chính mình, người làm thiện thì được quả thiện, ngưới làm ác chắc chắn thọ quả khổ; Do đó cần được huệ nhãn giải thoát, thì ắt cần phải tu trì chí thành, lấy giới định huệ để phá trừ tham sân si, lấy mười việc thiện để đối trị mười việc ác, nương theo tám đường chánh để tiến hành tăng trưởng đạo đức thực tiễn qua thời gian, công phu đến một lúc bèn có thể diệt trừ tất cả phiền não, khổ đau, thoát ly cảnh giới sinh tử luân hồi.
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp bốn mươi chín năm: Không pháp nào chẳng vì người đời, mà chỉ đưa ra một điều là: “Đạo thành Phật”. Tự mình sáng tạo ra trí huệ và nhân cách viên mãn rất triệt để, chỉ một đường này lại là chính mình nhờ vào nghị lực, đi bằng trí huệ và tâm thường hằng để hoàn thành nó, cho nên biết rằng thành Phật, bí quyết tu hành là từng giọt công phu, từng bước tu hành, một bước tới trời là không lên được.
Học Phật trong cuộc sống hiện thực là vì đã trải qua cuộc sống lý tánh, trong lòng đã hàng phục được phiền não chính mình, trước mắt làm bất cứ việc gì, trước nhất nghĩ xem chúng sinh, nếu như làm sẽ tổn hại đến chúng sinh, như thế thì không nên làm!
- Người học Phật cần nên KHÔNG ở nơi tâm, KHÔNG, thì có thể giải thoát, chẳng như vậy thì Từ bi nhiều, nhọc nhằn gánh vát cũng nhiều.
Pháp môn niệm Phật rất thù thắng và tôn quí, khắp nhiếp hết căn cơ (thượng, trung, hạ) của chúng sinh. Như thế tại sao lại khiến cho người ta tâm tịnh (KHÔNG)? Đầu tiên cần phải bỏ hạnh ác, xa lìa tham dục, dục nhiễm (ham muốn nhơ uế) chẳng tịnh, tâm chẳng tịnh thì niệm Phật không rõ. Cần thiết cho việc tu tâm là ở sự giữ gìn kiên cố giới pháp. Giới bị dục nhiễm là do ba nghiệp, tất cả chỉ nơi tâm tạo ra, sự ham muốn được sinh ra, rồi kết nhóm, khởi lên, duyên với nhau, nghiệp của ham muốn là do tâm sinh, nên theo đó các pháp được sinh, một khi đắm nhiễm tức là bị trói buột, chẳng được tự tại. Cho nên yêu tiền của thì chết vì tiền của, yêu danh thì chết vì danh, các việc khác thì xét biết. Sự nhiễm của cái nhiễm xô không đi, rảy không rớt, xen lẫn trói buột, nếu động thì buột càng chặc, nếu có thể không Ái không Thủ đối với sự ham muốn, cũng như “tráng sĩ chặt tay”; Hoa sen mọc lên từ bùn lầy mà chẳng bị nhơ.
- Người tu hành tịnh nghiệp, đối với tự mỗi cuộc sống, thiểu dục tri túc sẽ được đầy đủ, như đối với áo mặc, cơm ăn, chỗ ở, tới lui đều cần nên đạm bạc, càng đạm bạc càng tốt, thì sẽ không có sự trở ngại, công dụng đối với sự tinh tấn, dứt diệt tất cả tâm: Lợi danh, ham muốn, tham luyến, cống cao, bao che, nhân ngã, thị phi... đều nên diệt hết.
- Đã niệm Phật nhiều năm, muốn cầu chứng được cảnh giới “nhất tâm bất loạn”, nhân vì căn tánh của mỗi người nào là: nghiệp chướng, phước đức, nhân duyên, tinh tấn có khác nhau, trên thời gian cũng rất khó nói, ra công đến lúc tự nhiên “nhất tâm bất loạn”; còn cưỡng cầu trái lại thì tâm càng loạn.
- Sự chứng nghiệm của niệm Phật rất nhiều, như là: hương lạ bay đầy nhà, nhạc trời réo rắt trên không trung, thấy hoa thấy hào quang, ánh sáng chiếu đến thân thể, tòa báu hiện ra trước mặt, biết trước giờ lâm chung đến, sắc mặt như lúc còn sống, thân thể mềm mại, khí nóng trên đảnh đầu chưa tan v.v... không phải là một việc.
Rất nhiều bạn lành ban đầu mới bước vào cửa Phật, chẳng biết làm gì đối với đời ác, chỉ trì niệm Nam Mô A Di Đà Phật, thì đã có chỗ tốt đẹp bất khả tư nghì, nói không thể hết. Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thương xót chúng hữu tình của cõi Ta Bà, ở trong kinh điển nhiều lần nhắc nhở, khuyến khích niệm Phật, chúng ta nên cảm lấy ơn niệm Phật, tin thọ vưng làm, nguyện xin chư vị bạn lành lập tức phát tâm tu hành, tịnh niệm tương tục, nhất tâm chuyên ròng niệm Phật, nếu chân chánh dụng công, cần nên biết rằng tu hành là việc lớn bổn phận. Mưu sinh công tác chỉ là liên hệ cái nghiệp bức bách.
Người ta nếu gặp nghịch cảnh, chỉ tăng sức niệm Phật ngày đêm, thành tâm bố thí nhiều, chẳng chấp giữ lấy duyên trần, chẳng cảm lấy sự ham muốn của tình thức, nhất tâm tinh tấn ở nơi vô vi, không dấy vọng tưởng, không khởi tạp niệm; Một cái vọng tưởng, một cái sinh tử, một cái tạp niệm, một cái chướng, không dấy vọng tưởng thì không khởi tham, sân, si, không khởi tạp niệm thì không sinh sự so tính nhân – ngã, thị phi. Giữ chí chẳng hai, tâm trì hiệu Phật, niệm niệm rõ sáng, niệm niệm giác ngộ, là tâm thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh, cũng là tịnh nghiệp.
Người phàm phu thời mạt pháp chướng nặng nề, căn ám độn rất nhiều, người ta bất tất cần cầu quá cao, chậm chậm lại, chớ nên gấp rút, muốn mau thì chẳng được (dục tốc bất đạt), thời gian và không gian đều cần phải phối họp, đồng thời cần phải có tâm nhẫn nại, nhân duyên chưa thành thục thì nóng lòng chưa chắc có hiệu quả.
Niệm Phật quyết cần phải dẹp bỏ buông hết những bụi phấn cố chấp trong tâm và ngoài thân, nhất tâm trì niệm danh hiệu Phật, nhiên hậu mới có thể tương ứng, đem một câu danh hiệu Phật, niệm cho được rõ ràng, chớ nên giữ niệm nghi ngờ, quyết niệm được trong tâm có Phật, đến nhất tâm bất loạn. Niệm Phật chẳng khó, nhưng khó ở chỗ là có tâm cung kính, chí thành và lâu dài hay không thôi! Vì vậy nên cùng là người niệm Phật, nhưng sự cảm ứng ở nơi mỗi người thì chẳng đồng nhau.
Phàm phu nhiều điều bất tịnh cho nên mới học Phật tu hành. Tu hành tức là lãnh hội như thế nào để trừ bỏ công phu bất tịnh, ra tay theo sự tịnh hóa tâm địa, đã không bàn luận lẽ mầu nhiệm, cũng không cần cảm ứng thần bí, hoàn toàn là công khai, bắt đầu từ sự làm người tu thân dưỡng tánh.
Bất tịnh tức là ác, tịnh tức là thiện, trong ruộng thức thứ tám (A lại da / tàng thức) được giữ hột giống thiện ác đều có, gặp duyên bên ngoài đụng tới tức họp. Nhưng học việc ác rất mau, nói ra tức hiểu liền, cho nên dễ đọa vào ba đường; Học việc thiện thì cần có tánh nhẫn nại, lần hồi huân tập, so ra thì chậm hơn nhiều.
Chúng ta sỡ dĩ học Phật tức là sửa đổi cái bất tịnh làm cho tịnh, bỏ ác hướng thiện, cho nên học Phật niệm Phật được gọi là TỊNH NGHIỆP, đơn giản như thế. Nhưng người niệm Phật nhiều năm, làm người tiến bộ bao nhiêu? Rất nhiều chẳng thể. Đã gọi là tịnh nghiệp tức là ba nghiệp không nhiễm mà phải tịnh; nội dung bao gồm: Thân không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Miệng không nói láo, không ác khẩu, không nói hai chiều, không nói chìu uốn nịnh nọt. Ý Không tham muốn, không sân nhuế, không ngu si; Do bắt đầu từ mười việc thiện này, tiến đến mà làm được căn bản Phật pháp là Từ Bi Hỷ Xả.
Khởi tâm động niệm tạo nghiệp phải làm cách nào? Không có biện pháp nào tốt, duy chỉ có chánh niệm hiện tiền, niệm danh hiệu Phật, lấy danh hiệu Phật để thay thế vọng niệm, bất kỳ phiền não nào khởi lên, chỉ lo niệm Phật, chẳng cần lý giải về nó, mỗi niệm đều là tịnh nghiệp thì chẳng tạo ra tai vạ mới.
Niệm Phật tu hành mà vẫn còn lâu chưa có chỗ tiến bộ là nguyên nhân tại sao? Bởi vì bình thường phần nhiều hay chú trọng đến các duyên nhiễm ô. Người phàm phu đa số là có thói quen đắm nhiễm, do đó tâm bị cấu uế, việc làm tức nương theo, nên dễ tạo lỗi, phạm lỗi; người học Phật thì phải “hạ thủ công phu” từ đây. Nếu như ta khinh mạn, chê bai, đố kỵ, ghen ghét, phân biệt, so đo v.v... đều là chướng, cách đạo rất xa. Nên phải thường kiểm nghiệm cái tâm, tự hổ thẹn, sám hối nhiều, bỏ nhơ lấy sạch, nghiệp chướng lần hồi tiêu trừ, mới có cảnh giới tiến bộ cho thân tâm.
Luận “NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG” nói:
- “Niệm Phật có mười việc làm trở ngại lớn, chẳng nên cầu, người tu hành cần phải biết:
1. Niệm Phật chẳng cầu không bệnh.
2. Xử thế chẳng cầu không nạn.
3. Xét tâm chẳng cầu không chướng.
4. Gắng làm chẳng cầu không ma.
5. Mưu việc chẳng cầu cầu dễ thành.
6. Giao tình chẳng cầu lợi mình.
7. Đối người chẳng cầu thuận thông.
8. Làm ơn chẳng cầu đền đáp.
9. Thấy lợi chẳng cầu chia chiếm.
10. Oan ức chẳng cầu biện minh.
Tâm có niệm lộn xộn thì chẳng tịnh, vọng tưởng là ma của tâm. Lời thuật trên cần cho chúng ta lâu dài luyện tập, cũng như cổ đức nói rằng: “Người đến chỗ VÔ CẦU thì phẩm giá tự nhiên cao”. Đây là tính trọng yếu của việc tu dưỡng đã nói rõ.
- Người tu hành tịnh nghiệp, quên đi sinh tử, chẳng quan tâm đến sự tính toán nói năng ngoài miệng, quán sát ngay nơi ngũ ấm là vô thường, thời gian không đợi ta, vui chơi một thuở mà lo sầu dài sau, đau xót tự nhàm lìa Ta Bà mà vui vẻ mong cầu vãng sanh Cực Lạc. Ngày nay bắt đầu chớ nên than học chậm, chỉ sợ rằng thiếu chí mà thôi!
- Lực chính của niệm Phật, trước nhất là cần tâm chí thành - chân tâm chẳng dứt. Niệm Phật phải thanh tịnh để đoạn trừ phiền não, là TỰ LỰC chí thành niệm Phật, cảm được sự gia bị của Phật đó là THA LỰC; Pháp môn niệm Phật rất thù thắng, thành tựu ở chỗ tức là hai lực TỰ THA, nếu đem tâm chí thành niệm Phật, phiền não có thể giảm nhẹ, thậm chí được tiêu trừ. Lúc chí thành niệm Phật, đối với các việc nhân ngã, thị phi, được mất, tốt xấu, chẳng khởi tâm yêu ghét, chẳng chuyển theo cảnh, chẳng sinh phiền não, một mức rất chí thành, nhất tâm bất loạn, mạng chung nhất định sanh vào nhà Như lai.
- Người đời ưa chấp có NGÃ, vì “có ngã” nên tạo nghiệp thọ khổ. Do có ngã nên sanh ra ba thứ bệnh: - Những vấn đề họp với ta thì sinh ra tưởng duyên gần gũi (Thân duyên tưởng), như: người thân, cha mẹ, vợ chồng, con cái v.v... những việc nghịch với ta thì sinh tưởng duyên oán giận (oán duyên tưởng) - đối với việc không thuận không trái thì là tưởng duyên trung bình (trung duyên tưởng). Do ba thứ này cảm thọ không đồng; như thân duyên tưởng thì sinh LẠC THỌ; Oán duyên tưởng thì sinh KHỔ THỌ; trung duyên tưởng thì sinh XẢ THỌ, chẳng khổ chẳng vui. Do ba món THỌ này dẫn sinh ra ba món độc: Tham, sân, si. Vì sao? Lạc thọ sinh tham, khổ thọ sinh sân, và xả thọ sinh si.
Nắm chắc vào phương pháp niệm Phật, không gấp rút không trì huỡn, chẳng thả lỏng chẳng gút chặc, chẳng buồn chẳng vui, chẳng cao chẳng thấp, chẳng dứt chẳng đoạn, chẳng cống cao, chẳng tự mãn, không lo không rầu, rất là VÔ VI, khiêm tốn hài hòa nhún nhường, lặng lẽ ra sức hành trì. Ngoài ra cũng phát tâm, tùy hỷ các khoảng từ thiện, văn hóa, công ích xã hội... những công việc Phật, tự mình cố gắng, tùy sức tùy phần, cần biết rằng nước lớn thì thuyền tự cao, bởi “vô sở đắc” (không chỗ được) mà! Trong lúc ngồi nằm bình thường, thường tự mình hướng tây, lễ Phật niệm Phật, khẩn thiết phát nguyện, lòng thành khẩn thì sẽ cảm ứng. Thường tự quán xét tâm, nếu có tiền của dư thì chuyển làm việc ích lợi cho chúng sinh, nên xa lìa dục lạc trong đời sống hiện tại, cần nên cẩn thận!
Nghèo nàn khốn quẩn nhiều bệnh ấy là bản thân không tránh khỏi những trạng thái: buồn rầu, khổ sở, bi thương, tinh thần thường xuyên ở nơi sự rỗng không, tẻ nhạt, ai oán... thế thì làm sao? Nghệ thuật của cuộc sống không cầu cạnh ở người khác. Cần biết rằng, người không tốt cả ngàn ngày, hoa không tươi thắm đủ trăm ngày, sao bằng ngược lại cầu ở chính mình, không sợ cuộc sống gặp cảnh khốn quẩn, ngại gì lấy khổ chế khổ, thản nhiên mà tiếp nhận để dũa mài, xem như quả báo nặng hơn mà sự chịu đựng lại nhẹ, lấy khổ làm thầy để bồi dưỡng cho tinh thần lạc quan, tiến thủ, phấn đấu; không sinh tâm ngu si, chẳng oán trời trách người, chẳng nhụt chí. Quí tiếc thân người, có một ngày làm thì một ngày tính toán. Quán sát vô thường, thân này rốt cuộc rồi cũng trở về với sự bại hoại, sao đủ để tiếc, tư duy về nhân quả, thì nghiệp báo nghèo nàn khốn quẩn nhiều bệnh như thế chắc chắn có nguyên nhân mà phát sinh ra, chớ cần oán trách, đã như vậy thì nắm chắc cuộc sống này, đem nhân quả của khổ làm một sự giải quyết triệt để mới là bực đại trí. Do đó, có bệnh thì tự nhiên tìm thuốc để trị liệu - là nguyên tắc, trong thời kỳ trị liệu cũng có thể đồng thời tiến hành mà sám hối, làm việc thiện, niệm Phật để cầu chuyển biến nghiệp báo, sớm được bình phục lại sức khỏe.
- Lúc gặp những vấn đề mà đột khởi lên niệm ác, phải nhiếp trụ ba nghiệp thân miệng ý, nỗ lực như thế nào lâu ngày chắc chắn sẽ thành công. Nếu lúc khởi niệm ác, muốn làm việc tổn hại người, thì lập tức niệm: Nam Mô A Di Đà Phật.
- Người niệm Phật tu hành, cần thường giữ ba nghiệp thanh tịnh, việc tổn hại người nhất quyết không được làm; Ngược lại, nên thường giữ gìn tâm thiện, làm việc tốt, nói lời tốt đẹp; Nếu khởi ác niệm, thì theo đó tức nên sám hối.
Con đường tu hành không phải đối với người hoặc cái gì khác, duy chỉ có sự sửa đổi tâm mà thôi, tức là đem “tâm sinh diệt” của chúng sinh chuyển làm “tâm đại bồ đề”, bất sinh bất diệt. Nội tâm không vọng tưởng tạp niệm, phiền não tà kiến không khởi lên, lâu rồi tự tánh được thanh tịnh, chẳng bị thế giới phồn hoa dẫn dắt, nghiêm nhặt trong những sự tạo tác và đeo đuổi của cuộc sống. Nếu có thể mỗi niệm mỗi niệm đều “vô cầu vô đắc”, lìa bỏ tâm truy tìm cầu sự được mất, lìa bỏ tâm sợ sệt và hy vọng, lìa bỏ tất cả tâm đối đãi và phân biệt, ngoài không bị cảnh trần chuyển, trong không bị tâm niệm chuyển, lâu rồi sáu căn được thanh tịnh, ánh sáng vi diệu của chơn tâm tự hiển lộ, tức thành Phật đạo.
Kỳ thật tu trì Phật pháp tiến bộ hay không là nhìn ngay vào vọng tưởng và phiền não đó càng ngày càng ít hay không? Tập khí mỗi ngày mỗi ít không? Và tâm Từ - bi hỷ xả có càng ngày càng thêm lớn hay không?
- Học Phật tu hành không phải là một loại chức vị hay nghề nghiệp, làm cho người ta xem; Ở trước người thì làm một kiểu, như ăn chay, trước người thì ăn chay, sau người thì ăn thịt uống rượu; ngoài miệng không chưởi người mà trong lòng lại chưởi, bị khinh bỉ thì nghĩ cách báo thù; chẳng chiếm đoạt được vợ con của người thì ngược lại tìm cách chọc ghẹo kích thích tính dục; trăm cách kết giao với người quyền quí, không hề dòm ngó đối với kẻ bần cùng; dung túng chính mình, hà khắt với người... đây tức là trong ngoài không một mối, chẳng được làm như thế.
Tu hành giống như đánh đàn, lúc dây đàn xoắn quá cứng thì đánh không ra âm, dây đàn buông lỏng quá đánh cũng không ra âm, dây đàn nếu xoắn đúng mức, âm vận sẽ cao thấp thích đáng thì các âm sẽ được hài hòa. Tu hành cũng cần phải như thế này, chẳng nên gấp rút thành đạo, cũng chẳng được lười mỏi buông lung thối lui, cần phải có sự hành trì chuyên tâm hằng tâm, rốt rồi cũng sẽ có ngày thành đạo. Nếu gấp rút để thành, như thế quá lao nhọc mà lại tổn thương thân thể, còn làm cho thối lui công việc hành trì, tất nhiên sẽ tạo ra nhiều các nghiệp ác; cho nên người tu hành cần phải gấp – qưỡn cho thích đáng, “ý” giữ lấy sự an lạc.
Niệm Phật là niệm GIÁC, giác ngộ tất cả tập khí vô minh, khiến cho nội tâm thanh tịnh, trở về với “bản lai diện mục” - Phật tánh. Rõ được lý rồi sau lại niệm, thì niệm được ngay; đã rõ rồi vì sao cần niệm Phật? Khắp các cảnh giới đều dùng một câu: “Nam Mô A Di Đà Phật” đề giải quyết. Bồi dưỡng và tập thói quen ở nơi đức Phật, ngày ngày niệm Ngài, giờ giờ niệm Ngài, cùng Ngài duyên, đến lúc tự nhiên tương ưng; Chỉ việc miệng niệm thôi mà tâm tâm tưởng khác, theo niệm lơ là, niệm Phật cách này thì chẳng được hiệu quả. Chúng ta đã ở trong cuộc sống như biển khổ tham, sân, si... mênh mông này, trừ sự giác ngộ giải quyết vấn đề ra, thì cần phải nương nhờ vào trì giới, bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn để vượt qua biển khổ này, ở ngay trong đây tức là một câu: “Nam Mô A Di Đà Phật”, khiến cho vọng tưởng, tạp niệm của chúng ta sinh ra chẳng được.
- Không cần phải hỏi là: Niệm Phật có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương tây hay không? - mà ngược lại phải hỏi rằng: Chính mình có phải là niệm Phật chuyên nhất chí thành hay không? Chuyên ròng niệm Phật không? Trong tâm có Phật không? Có thể nghiêm trì giới luật hay không? Có thể: bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, ăn toàn chay, nhìn rõ tình đời, buông rời việc thế tục hay không? Có thể nói người tại gia tu hành, lúc mạng chung Đức Phật A Di Đà cũng đồng đến tiếp dẫn họ. Không thể nói là người xuất gia tu hành lúc mạng chung Đức Phật A Di Đà cũng chẳng thể đến tiếp dẫn họ! Còn nếu đã được chút ít thành tựu, thì tự NGÃ hiện khởi, rao bày danh phận đến mức khoe khoang, được chúng khen ngợi, kính nể thì cao hứng thích thú, đến mức cuộc sống vật chất cao cấp thì vô cùng khoái trá phơi phới mặt mày, tham luyến ảo ảnh tốt đẹp, thế thì sai lầm lớn, sai lầm đặc biệt.
Tu hành không phải là việc của một năm, mười năm, mà là việc cho cả cuộc đời, không nên cầu mau đạt hiệu quả, mà nên tu bình tâm tĩnh khí, chẳng nên tu một đoạn thời gian rồi thấy không cảm ứng thì không tu nữa, như vậy là không có tín tâm đối với Phật Đà. “Cảm ứng” là sự lưu lộ hiển bày của Phật tánh trong con người vốn đủ, nhưng gặp mà chẳng nên cầu! Nếu đem niềm hy vọng hoàn toàn gởi gắm ở Phật và Bồ tát - nhân bên ngoài này, là lực lượng của duyên, mà căn bản đã phủ nhận cái Nhân (nhân bên trong) quyết định bản chất sự vật, phủ định sự nổ lực của chính mình. Hơn nữa người mới tu hành tâm lực chẳng kiên cố, động cơ cần cầu thì lại phần nhiều chẳng thuần thục, cho nên khó cầu việc cảm ứng. Niệm Phật không phải là làm cái việc mua bán, tôi đưa anh tiền, anh phải đưa lại tôi hàng hóa, cũng vậy, tôi niệm Phật, Phật nên cho tôi sự cảm ứng! Người có tâm niệm như thế là đã dính mắc “tà kiến”, làm sao được sự cảm ứng. Niệm Phật có cảm ứng là người niệm phải chí thành chuyên nhất, duyên đến tự nhiên có cảm ứng, có tác dụng mà chẳng dính mắc ở chỗ mong cầu, duyên chẳng đến thì dẫu mong cầu, lại cũng không tác dụng!
- Việc tốt đẹp của niệm Phật, không những lúc mạng chung được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh về nước Cực Lạc ở phương tây, mà chư Phật Bồ tát, tám bộ Trời Rồng, tất cả thiện Thần còn sẽ ủng hộ người niệm Phật được bình an; Nếu công phu chín mùi còn sẽ được “niệm Phật tam muội”, phát sinh trí tuệ. Cuộc sống tinh thần được an ổn tốt đẹp, tự tại, vui vẻ; phần lớn làm giảm nhẹ đi sự “bi quan nhàm chán” ở trên mọi công tác, gia đình và xã hội, tinh thần sáng suốt và thoải mái, nhận lấy sự lợi ích vô cùng.
- “Nói ít đi một câu chuyện, niệm nhiều thêm một câu Phật”. Ngoài những lời chân chính ra, không cần phải huyên thuyên những lời trên trời dưới đất, tào lao những chuyện đông tây, mà chẳng chịu dừng (không phải là chẳng cần bàn bạc cùng với người, mà là không nói những lời nhàn tản vô ích hay tổn hại người), càng không nên khởi lên VỌNG TƯỞNG, mà sinh phiền não.
- Đối với thuận cảnh thì mặt mày rạng rỡ cười vui, đối với nghịch cảnh thì lại buồn rầu khổ sở, đây tức là đã bị cảnh chuyển rồi, cần phải nên làm cho được đến lúc gặp thuận chẳng vui, gặp nghịch chẳng buồn, tốt xấu đều không khởi tâm động niệm, đừng để bị cảnh chuyển lôi. Sự khởi tâm động niệm này là lúc NGHIỆP đang hành động (hiện hành nghiệp), nếu chấp lấy không xả bỏ, thì chẳng được vãng sanh!
Tu hành, tức là sửa đổi cái thân hiện tại, việc ác không làm, việc tốt làm nhiều, nên không vọng tưởng, không khởi phiền não, phàm việc gì chẳng nên so kể, tình đời không nên gút mở được thì mở, việc tục muôn duyên buông rời, công việc thì đảm nhiệm được tâm thoải mái, yên lành, tự tại, vui vẻ, xem tất cả đều thuận mắt thanh thảng thư thái, sẽ được kết cuộc thiện (lâm chung tốt đẹp).
Trong tu hành, nếu gặp phải những việc bất lợi (hay thất bại), không như ý, những việc rối rắm khốn quẩn vô lý, đều xem đó như là quả báo oan gia, tiếp nhận nó không có chút oán hận, nếu có thể thọ nhận một cách vui vẻ, lúc thọ nhận xong rồi, thì sẽ trả lại sự bình an. Nếu oán trời trách người, thì qua lần này sẽ tiếp đến lần khác nữa.
Tu hành, không nói đúng hay không đúng, tức là làm sao cho tự mình đúng thì thôi, còn người nhà nói lệch đi cho là anh không đúng đi nữa, cũng chẳng nên tranh biện, vì ngay khi tranh biện thì phiền não liền khởi, tâm sẽ không an. Chỉ nên quan tâm đến cái không đúng của mình, chẳng nên nói cái không đúng của người ta, nói người ta không đúng tức là cái không đúng của mình.
Nếu đã học Phật, trên cuộc sống so với ngày trước không thuận lợi bằng, lại thất chí, đó là chủ nợ (oán thân) nhiều đời đến để đòi nợ; Nên đem công đức mà hồi hướng cho chủ nợ, thì nghiệp trước mới có thể tiêu trừ; nghiệp trước tiêu trừ thì làm việc được thuận lợi; nếu thân có bệnh, nên lấy vô bệnh để nhìn thì sẽ chẳng cảm thấy khổ, có khổ cũng nên tự rõ đó bởi ác nghiệp đời trước mà đời này chịu báo, nên trả nợ, sau khi nợ hết, mới có thể thân an, quán sát như vậy mới chẳng cảm thấy khổ.
Mỗi khi gặp lời ác (xấu) đến với ta, lời phi lý dính dán đến ta, lời phỉ báng, nhục mạ, ác ý phê bình, đều chẳng nên tồn tại ở ý, chẳng phân bua đạo công bằng với người ta, nên nhìn cho thật rõ (không cố chấp), thì tâm sẽ tự bình ổn, hãy lùi một bước để trời cao biển rộng, phiền não chẳng thể sinh trưởng được.
- Nhận ân huệ không vui, chịu nhục không sân, thì tâm được tự tại. Khi khen, thì nhìn người ta vui hay không, nghe hay không; Lúc hủy báng, xem người ta có công phu nhẫn nhục hay không, chịu suy xét kiểm nghiệm hay không. Nếu có thể nhận ân huệ mà không vui, chịu nhục không sân, không khởi tâm động niệm, là có động lực không bị cảnh chuyển.
Tâm như hư không, chẳng chấp trước sắc thân, buông hết việc đời muôn duyên, phàm việc gì cũng phải xem cho rõ, buông cho rời, tự nhiên phiền não không khởi. Không tạo tác chuyện vu vơ, không trau chuốt, không khoe khoang, không phô bày, không nịnh hót, không ứng suông, chẳng làm công việc bề mặt, không đầu cơ thu lợi, không thuận mặt trái lòng; phải nên khởi lên CHÁNH TRI KIẾN, CHÁNH NIỆM, nhất tâm niệm Phật.
Ngăn chặng sự kiêu ngạo, tự lợi, tư riêng, khinh nhờn, phẫn nộ, hoài nghi, tà kiến, dục vọng. Không ham muốn thì yên tĩnh, yên tĩnh thì sáng suốt. Ngàn vạn lần cũng đừng nên chấp dính sự vật hay công việc mình yêu vui, lại càng không được ghét nhơ những gì không vui vẻ đối với mình. Buồn thương, âu lo, sợ sệt, bận tâm, vui vẻ, yêu thích, đều là đến từ sự ghét thương của con người.
Phàm có tâm ghét thương, đây gọi là TÌNH, nếu xem oan gia thấy như người thân, thì “tâm ghét thương” có thể cắt đứt được.
- Học Phật tu hành, là học Phật pháp (chân lý) của đức Phật dạy bảo chúng ta, tổng kết lại một câu nói tức là: TU TÂM CHÍNH MÌNH, Phật tức ở trong tâm mình, chẳng nên hướng đến cảnh bên ngoài để cầu, mà phải hướng đến tâm mình để cầu, dùng tâm lực bình thường thực hành tám đường chánh (bát chánh đạo), tin luật nhân quả, khiến cho ba nghiệp thân, miệng, ý được thanh tịnh, ăn toàn chay, điều hòa, bình ổn tùy thuận, an tường, vui vẻ ở nội tâm, tự nhiên tự tại, sửa đổi chân chánh tư tưởng và hành vi của mình, thường thường quán sát tâm, bỏ hết những niệm đầu: bất chánh sai lầm, tối tăm nhạt nhẽo, luống dối trá ngụy; Cảnh giác ngăn dè chính mình, tự phê bình chính mình, như có lỗi lầm thì nên sám hối sửa đổi, nhưng không được phạm lỗi mà cố ý che đậy, lại càng không được sám hối để cố ý che đậy.
- Học Phật tu hành, là tu TÂM của mình, sửa đổi cho tốt cái tâm, việc tu hành mới không trở ngại, tâm niệm ác, việc làm ác, đều không nên có một chút nào, giữ tâm thiện, làm việc thiện, nói lời từ ái, đoạn dứt phiền não, vọng tưởng tạp niệm không sinh, tình đời nhìn rõ, việc tục buông rời, không bị hai cảnh thuận nghịch chuyển lôi, chẳng bị “tình” vây hãm, chẳng bị “ái” trói buột; làm cho được việc không tưởng ác cũng không tưởng thiện, nếu không tu tốt được TÂM, dẫu cho thông kinh thông giáo mà tự thân không thông, thì vẫn ra không khỏi ba cõi!
- Ở trong cuộc tu hành hàng ngày, khi dụng công phu cần phải cầu ở bên trong, dụng công ở tâm. Thứ nhất, là làm mỗi công việc đều cần cho tâm không có niệm tạp, chuyên chú rõ ràng, làm cho xong mỗi công việc dù có lâu, làm việc, niệm Phật đều nên nghiêm túc, thì đối với công tác, tiếp vật đãi nhân đều có sự giúp đỡ. Thứ hai, lúc rảnh rang việc giảng nói nên “tự hỏi tâm ở đâu?” trong khoảng thời gian này làm cho được việc không vọng tưởng, lâu rồi công năng phát ra, thì sẽ được an tịnh thể hội cảm giác không vọng tưởng, chầm chậm bồi giúp cho mình quán sát niệm đầu của mình, niệm đầu ngay khi khởi lên, liền biết nếu là ác thì lập tức buông bỏ. Thứ ba, bất luận là vấn đề gì phát sinh, cần phải nên quay lại quán sát chính mình là có hay không có vấn đề, tất cả đều xem ở nơi tâm mình, cần phải làm chủ (chủ động).
Tu hành, là tu sửa cho chánh chơn cái “tâm” của ta, tu sửa cho chánh chơn hành vi và lời nói của ta. Chỉ cần có sự vận hành của tâm, thì sẽ có hành vi của thân và ngôn ngữ của miệng. Dùng tâm thanh tịnh để làm tất cả mọi việc, đây mới là sự chắc thật chân chính của tu hành. Mà không phải là chỗ thanh tịnh làm việc bẩn thỉu. Tu hành cần nên xét tự tâm, chẳng nên chỉ biết việc bên ngoài, cầu danh cầu lợi... bận rộn. Tu hành là lấy sự “Minh tâm kiến tánh” làm chủ yếu. Tất cả Phật pháp đều là nghiên cứu trạng thái biến động của tâm, tất cả việc tu hành đều là phương pháp chế phục tâm. Một đời mà chỉ cầu nơi việc bên ngoài: ăn, mặc, ở, đi, vì danh, vì lợi, hoặc vì vợ chồng con cái mà bận rộn, e rằng tạo nghiệp chẳng phải ít, thì đối với việc tu hành không có nhân trợ giúp, nhiều lắm thì cũng chỉ có thể được phước báo trời người.
Tham cái vui thế gian (tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ) mà dùng tâm dùng sức rất là nhiều, lúc hưởng thụ thì lại ít, tạo nghiệp ác nhiều, tạo nghiệp thiện ít, được thì khó mà mất thì dễ, vui thì lại ít mà khổ lại nhiều.
Phật pháp chỉ bất quá là hy vọng người đời chẳng nên “chấp trước” mà thôi, thật ra chẳng phải là muốn người đời dù thế nào cũng đều không nên nghỉ tưởng, không thể làm việc; Đây tức là: “Ứng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (Ứng với sự không chấp giữ mà sinh tâm). Còn đời người thì là: “Hữu sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (có sự chấp giữ mà sinh tâm), đối với việc khởi tâm động niệm, cho là đồng với khái niệm suy nghĩ mà phát sinh ra sự kiên nhẫn, nhận giả làm chơn, cho nên cuộc sống không vượt ra khỏi tư tưởng non nớt. Con người tóm lại có thể khởi tâm động niệm, giải thoát cũng giống nhau, chỉ là giải thoát, chẳng nói là đình trệ ở niệm đầu, chẳng đình trệ ở niệm quán sát; cũng giống như chim bay qua bầu trời chẳng thể lưu lại dấu vết.
Con người đều có tâm, tâm này có lúc vui, có lúc giận, có lúc buồn, có lúc khoái, có lúc thiện, có lúc ác, có lúc thù hận người, có lúc ái mộ người; Bởi do tâm này biến hóa vô thường, từ đó cuộc sống cũng khổ vui chẳng ổn định. Cho nên tu hành nên từ nơi tâm mà bắt đầu.
Con người đối với việc quá khứ chớ nên tìm tưởng đến, tâm của quá khứ không khởi vậy. Đối với việc vị lai chớ nên nghĩ lường, vì tâm của vị lai chẳng có thể được vậy. Đối với việc hiện nay chớ nên vin duyên vào, vì tâm của hiện tại không có trụ yên vậy. Tuy thấy nghe rõ ràng mà chẳng quan tâm, là nói rằng chẳng khởi, chẳng khởi là vô niệm.
Tu hành cần “rõ lý”, rõ lý là nương theo Phật pháp như pháp mà tu hành; Như niệm Phật, thì một lòng chuyên niệm, niệm nhiều, trong tâm có Phật, nhất tâm bất loạn. Trì giới, phàm là có tâm tổn hại đối với chúng sinh thì chẳng nên tưởng đến, thân không nên làm, miệng không nên nói. Bố thí, có tâm Từ bi, giữ lấy tâm thiện, làm việc thiện, nói lời thiện. Tự tâm thanh tịnh, không có phiền não, không tạp niệm vọng tưởng, muôn duyên thế tục buông rời. Nhẫn nhục không giận dữ, không oán hận. Tin nhân quả, tin làm thiện có báo thiện, làm ác có báo ác.
“Chẳng rõ lý”, ví như niệm Phật, cho là mười niệm, hoặc sớm tối niệm một niệm Phật là đã niệm Phật rồi, sẽ được vãng sanh Cực Lạc; Lúc niệm Phật thì tâm có Phật, còn lúc chẳng niệm Phật thì quên mất Phật, bình thường hàng ngày làm tất cả các việc ác, phiền não căn cứ theo ngày trước mà phát sinh, khí nóng nương nơi ngày cũ mà hưng khởi, dục niệm càng nhiều, tâm sự chồng chất, vọng tưởng chấp trước, mà trở thành hay không trở thành tánh tình con người, oán hận, chẳng tin có sự báo ứng của nhân quả, đây tức là không rõ lý.
- Vì sao trí tuệ của mình khai mở? Vì công phu chẳng ra sức, không có tiến bộ, nguyên nhân chủ yếu đó là tham, sân, si, mạn chưa dứt đoạn; bình thường phạm phải bệnh này đối với người, với công việc, với sự vật, nên quyết cần phải tự hối trách sâu xa.
Sinh tử không dứt bởi vì tham muốn thèm khát vậy. Tham là tham ái, muốn là muốn thèm, là thèm ngon. Ở thế gian này mà còn tham ái kiểu này, kiểu nọ, thì muốn rời khỏi Ta Bà là điều khó được. Chúng ta đời đời kiếp kiếp tu hành mà không thể ra khỏi ba cõi, vẫn ở nơi luân hồi cũng là do tham muốn thèm khát. Nếu không ly khai thì như nuôi oan gia, một đời tu hành toàn rơi vào trống rỗng.
Dục niệm, dục là mong muốn, niệm là vọng tưởng, hai cái này tuy không thể cắt đứt, cũng nên từ từ mà buông bỏ đi, chẳng như vậy thì dẫu một ngày niệm đến vài vạn tiếng danh hiệu Phật, cũng không được sinh về thế giới Cực Lạc ở phương tây.
Đức Phật dạy rằng “Dục” là nguồn gốc của sinh tử, cần thành tựu nhất định nên tiêu trừ tất cả “dục niệm”. Nhưng phương pháp đối trị “dục niệm, thật ra chẳng phải là dùng cách dè ép hay cấm ngăn, mà là cần chuyển hóa. Từ sự nhận biết đặc tính của “dục niệm” một cách triệt để là: Vô thường, khổ, hư vọng, chẳng được tự tại; nhận rõ ràng chân tướng của nó lại chuyển hóa thành trí tuệ, nhiên hậu lại đem nó nâng lên, rộng ra, thành là sự quan tâm đến với tất cả chúng sinh.
Nếu như tâm mình bị “bảy tình, sáu dục” che ngăn, thì không những không thể ngăn dừng hạnh ác của mình, ngược lại sẽ chuốt lấy càng nhiều những rầu buồn, phiền não và khổ đau.
Người ta ở đời đều hy vọng có một cuộc sống hạnh phúc khoái lạc, song hạnh phúc khoái lạc từ đâu mà đến? Tuyệt đối không phải là do nơi “tu phước” mà đến, thấy người giàu có ngày nay, mọi người khác ngày ngày đều mong muốn được, cả ngày mặt ủ mày chau, thật ra chẳng vui vẻ gì. “Thiểu dục tri túc” (ít ham muốn và biết đủ) là ĐẠO. Dục là năm dục sáu trần (năm dục: tài, sắc, danh, ăn, ngủ - sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), cuộc sống không thiếu, thọ dụng đủ rồi thì được, chẳng cần tham nhiều; ăn no, mặc ấm, ở thoải mái thì được rồi; Cuộc sống thảnh thơi tự tại là chân hạnh phúc, tuyệt đối không phải là ở chỗ có bao nhiêu tiền bạc giàu có và sản nghiệp; Không buồn lo, không bận tâm, cho nên nói là: “tâm yên thì lý được”, hiểu được đạo lý, sự thật chân tướng rõ ràng thì tâm sẽ được an. Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với cảnh giới của sáu trần chẳng mê, đối với việc “đối nhân xử thế” hay tiếp vật đều gom về chỗ tốt đẹp, thì tự nhiên được tốt đẹp vui vẻ.
Trong cuộc sống ngày thường, đối với năm dục như thấy sắc nghe tiếng, chẳng thể chẳng động tâm, chỉ có là trẻ nít, còn như nếu có một chút xíu tâm yêu ghét, thì ra khỏi ba cõi cũng khó rồi!
Đem những sự tình từ thân, tâm cho đến ra ngoài thế giới... tất cả buông hết, chớ nên trở lại khởi tâm động niệm. Thị phi, được mất, cảnh khổ, cảnh vui, việc trước việc sau, đại khái chớ suy nghĩ; Tức lúc niệm sinh khởi khiến lập tức phải giác ngộ mà chiếu soi, chớ cùng với nó mà tiếp niệm. Cần nên biết rằng những tai ách trước mắt đều bị nghiệp ngày trước dẫn đến, đến lúc cuối cùng nghiệp duyên thì tự nhiên giải trừ.
Dứt ác tu thiện, tích lũy công đức, làm được như thế này, đời này đời sau có thể được phước báo lớn. Nhưng nếu không thể bảo đảm được đời đời kiếp kiếp không tạo nghiệp, thì khi phước báo hưởng hết, ác báo lại hiện khởi, chắc chắn đọa vào ba đường ác mà thọ khổ.
Cảnh giới hiện tiền, tập khí tâm bệnh lại đến, thấy được cảnh thuận nghịch lại sinh tâm yêu ghét, tham sân si mạn, riêng tư tự lợi, cần gấp rút là giác ngộ, dùng một câu “A Di Đà Phật” để thay thế tất cả niệm đầu là đúng nhất.
Chẳng nên trước cầu niệm Phật nhất tâm bất loạn, mà nên trước phải làm được công việc là niệm Phật nhiều, trong tâm có Phật, tâm thanh tịnh. Tâm không chuyển theo cảnh. Cảnh giới hiện tiền, vọng tưởng nhiều, mà tâm chuyển theo cảnh thì làm sao niệm Phật có thể nhất tâm bất loạn.
Lúc niệm Phật, mà trong tâm nghĩ suy lung tung, thậm chí tham, sân, si mạn, y như cũ chưa diệt chút nào, chẳng chơn chánh tu hành. Lúc niệm Phật mà sinh ác niệm thì không những không công, mà còn ngược lại là có tội lỗi.
Niệm Phật nếu có tín tâm chẳng đủ, lại còn muốn học những pháp môn khác, đối với việc thế gian sự hứng thú còn đầy ắp, lại trải qua ngàn đời vạn kiếp cũng vẫn vậy, sẽ mãi luân hồi nơi sáu đường.