Home > Khai Thị Phật Học > Bon-Thanh-De
Bốn Thánh Đế
Cư Sĩ Huỳnh Lão | Sa Môn Thích Viên Giáo, Việt Dịch


* Bốn thánh đế - nói chung:

Thuyết mười hai duyên khởi (nhân duyên) là viết ra chú trọng ở việc nói rõ khổ trên “duyên khởi lưu chuyển” sản sinh như thế nào, mà đối với diệt khổ “duyên khởi hoàn diệt” cho đến khi đạt đến giải thoát, chỉ có thuyết minh tiêu cực mà không cụ thể. Liên quan với duyên khởi hoàn diệt là đạo đế ở trong bốn thánh đế, tức là tám món chánh đạo (bát chánh đạo), có thuyết minh cụ thể rõ ràng. Do đó, vì muốn khảo sát toàn diện thuyết duyên khởi để thấy, không chỉ cần nói rõ duyên khởi, đồng thời cũng cần nghiên cứu đạo lý thực tiễn của bốn thánh đế.

Thuyết mười hai duyên khởi là pháp môn “tự nội chứng”, cũng tức là “tự hành pháp môn”. Căn cứ thuyết Đức Phật Đà quán sát sở đắc từ thiền định tư duy lúc thành Phật đạo dưới cội Bồ Đề, chỗ đối nhau, thuyết bốn thánh đế là “tha hóa pháp môn” nêu bày làm người khác hiểu rõ thuyết duyên khởi. Tức là lời dạy bốn thánh đế của Đức Phật ở tại vườn Lộc dã thuyết pháp cho năm vị tỳ kheo, đây là bắt đầu Đức Phật độ chúng sinh.

Bốn thánh đế thật sự là cơ sở của Phật giáo, cũng là tư tưởng trung tâm của phật pháp.

Bốn thánh đế là bốn pháp: khổ, tập, diệt, đạo. Đế ý là “chân thật bất hư”; đế này là chỗ biết của bậc thánh, cho nên gọi là “thánh đế”.

THÁNH, cùng với “Phàm” đối nhau, chỉ cho người ngộ được xuất thế gian vô lậu vượt khỏi sinh tử luân hồi. ĐẾ, tức là chân lý. “Khổ đế” là chỉ cho hiện tượng của sinh mạng, đều là quả khổ. “Tập đế” là nói rõ nguyên nhân tạo thành quả khổ. “Diệt đế” là nói rõ trạng thái lý tưởng diệt hết tất cả phiền não mà vào Niết bàn. “Đạo đế” là nói rõ phương pháp dẫn dắt diệt hết tất cả phiền não đau khổ.

Bốn thánh đế bao gồm hết hai lớp nhân quả của thế gian và xuất thế gian: Tập là nhân, khổ là quả, đó là nhân quả của cõi mê. Đạo là nhơn, diệt là quả, đó là nhân quả của cảnh ngộ. Đức Phật nói pháp, trước tiên nói “khổ”, sau đó nói “tập”, bèn là muốn khiến cho chúng sinh trước tiên phải nhàm chán ở sự bức bách đuổi rượt của các khổ và các nguyên do của các khổ, bèn liên hệ chỗ chiêu cảm của tập, khiến chúng sinh biết khổ mà đoạn tập, trước nói “diệt”, sau nói “đạo” là muốn chúng sinh, trước mừng ở nơi diệt, của sự an lạc thanh tịnh, truy tìm nguyên nhân của diệt, bèn phát ra sự tu tập của đạo, khiến chúng sinh tu đạo mà chứng diệt. Chỗ nói rằng khổ phải biết, tập phải đoạn, diệt cần chứng, đạo phải tu là vậy.

* Bốn thánh đế – chia ra nói:

3.1 KHỔ ĐẾ:

Khổ, là chỉ sự bức bách. Chỗ tạo ra vô số ác nghiệp của chúng sinh từ vô thỉ trở lại đây, ắt chiêu lấy khổ báo, như có ba khổ, tám khổ, vô lượng các khổ. Trạng huống thực tế tất cả sinh mạng ở trong cõi mê, đều chẳng có điều gì không là đầy dẫy những nhiễm ô và khổ não, tuy trong đời người cũng có lạc thú, nhưng cảnh vui này rốt cục sẽ ở nơi vô thường thay đổidẫn đến tạo ra đau khổ, không có ai có thể trốn được, liên hệ đối với chủng loại và hiện tượng của khổ sẽ thuật nói ở sau.

Bức bách thân tâm gọi là khổ, tức là phạm vi của khổ đế. Một hạng người đối với Phật giáo cực lực cường điệu thuyết pháp: “tất cả hiện tượng thế gian đều là khổ”, hiểu được mà không thể tiếp nhận, nhân vì ở trong hiện tượng giới, không những có khổ, cũng có vui và không khổ không vui, đây là sự thật trước mắt, vả lại khổ vui là thuộc ở nơi tình cảm, tuy nhiên phương diện đối với sự vật, hoàn cảnh đồng dạng. Nhưng do sự không đồng của nhân con người và nhân thời gian, cảm thọ chủ quan của cá nhân cũng thường có chỗ không đồng, cho nên không thể nhận chung hiện tượng giới là tất cả khổ. Thậm chí cho hiện tượng này là điểm cơ bản, quở trách Phật giáo là tôn giáo yếm thế bi quan. Những việc này đều là chẳng hiểu rõ giáo lý Phật giáo mà hiểu lầm lạc rồi dẫn nêu ra. Đức Phật nói thế gian có khổ nạn, nhưng đều chẳng phải là phủ nhận đời người cũng có lạc thú, như cái vui của loài trời, cái vui của năm căn và cái vui của thiền định... Nhưng những cái vui này là vô thường, biến dời không ở, rốt rồi vui quá sanh buồn, do đó mà đều bao trùm trong khổ. Cho nên chư vị về sau, lúc xem đọc tụng kinh điển Phật giáo thấy nói khổ đều là chỉ “vô thường tức là khổ”, mà không phải là khổ nạn chỗ gọi thông thường.

Bản thân của đời người tức là khổ, là giáo thuyết cơ bản của Phật giáo, gọi là “khổ thánh đế”, gọi tắt là “khổ đế”, là cụ thể thuyết minh hiện tượng của khổ. Liên quan đến chủng loại của khổ rất là nhiều, trong sinh hoạt hằng ngày thường gặp đến, chẳng làm sao kể xiết, nhân đó đưa ra “tất cả hành khổ” trong một pháp ấn “chư hành vô thường” của ba pháp ấn, thì đã bao hàm. Như từ kinh văn của “kinh chuyển pháp luân” thuộc kinh điển nguyên thủy mà nói, có thể đem khổ nói làm tám khổ, tức là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Nay lần lượt giải thích ở sau.

3.1.1. Sanh khổ: Sanh không phải là chỉ cuộc sống (sinh hoạt) mà là sinh ra đời (đản sinh). Nhưng ra đời chẳng phải là chỉ cho sát na ban đầu (kết sinh) lúc mang thai từ thai mẹ, mà do nơi việc tái sinh, nhất định chịu khổ luân hồi.

3.1.2. Lão kh: Lão, trong thơ của người đời Đường nói: “Công đạo nhân gian duy bạch phát, quý nhơn đầu thượng bất tằng nhiêu” nghĩa là (chỉ việc bạc tóc cũng là công đạo của nhân gian, trên đầu của kẻ cao quý cũng chẳng thể dung cho được), thì bất kỳ người nào cũng không thể tránh khỏi cái già. Con người sau khi lao khổ, bôn ba mấy mươi năm, ngoài ra, các cơ quan sinh lý khả năng suy thoái, nhân thể lực và sức đề kháng suy nhược thì các món tật bệnh xâm lấn hoành hành, đều khiến cho con người khó mà nhẫn chịu được đau khổ, dắt theo cái khổ trên tinh thần, da gà tóc hạt, trạng thái già nua lẩm cẩm, ai có thể trốn ra khỏi “công lệ già” này.

3.1.3. Bệnh khổ: Con người từ lúc cất tiếng khóc chào đời, thì đã cùng với bệnh kết duyên không giải được. Bệnh lúc nhỏ thì đậu mùa, bệnh sởi. Bệnh lúc trung niên như loét dạ dày, nhọt phổi, kết hạch... Bệnh lúc già như cao huyết áp, tim tạng bệnh... không thể kể xiết, tóm lại, sinh bệnh thì là khổ.

3.1.4. Tử kh: Các cơ của thân thể hoàn toàn không có năng lực hoạt động, tiêu tan mất tác dụng mà trước khi chết đã có. Bốn đại: Đất như: xương, thịt, lông, tóc... Nước như: máu, nước dịch, nước tiểu... Lửa: như nhiệt năng ở trong thân, Gió như là: sự hô hấp, chia cắt ra khiến cho trên nhục thể và tinh thần gặp đau khổ tột cùng.

3.1.5. Ái biệt ly khổ: Thanh xuân chia lìa đôi lứa, trung niên con bị chết non, hoặc vì cầu y thực, hoặc nhân sự bức xúc hình thế, cùng với người thân yêu chia lià, khổ về sanh ly, tử biệt.

3.1.6. Oán tắng hội khổ: Cùng với những kẻ đáng ghét gặp mặt, lời nói thiếu vị. Xung đột lợi hại, cả hai người chẳng bao dung nhau, lại còn gặp việc: cùng sống cộng đồng hoặc cùng công tác, nên dẫn đến cái khổ.

3.1.7. Cầu bất đắc khổ: Đồ gì muốn thu được, lực lượng kinh tế đạt không được, muốn mưu cầu một vị trí, “người nhiều mà cháo ít”, mưu không được, công việc chỉ muốn cho chính mình không được, vì là ăn không được cơm thì chẳng làm việc, dục vọng chẳng thể đủ đầy, tức là có sở cầu mà cầu không được, há chẳng khổ não ư?

3.1.8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: Năm ấm tức là năm uẩn, năm uẩn nhóm tụ thành thân, như lửa cháy mạnh, bảy món khổ trước đều do đây mà sinh; “Sắc ấm” xí thạnh (hừng hẫy) bốn đại không điều hòa mà có khổ về tật bệnh; “Thọ ấm” xí thạnh, lãnh nạp phân chia, khiến cho các gốc chuyển thêm mạnh; “tưởng ấm” xí thạnh, tưởng tướng tìm cầu, mà có ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, các điều khổ; “Hành ấm” xí thạnh, khởi tạo các nghiệp, lại là các nhân về sau chịu báo, vả lại nhân nơi hành mà dời đổi không dừng, nên có khổ về lão suy; “Thức ấm” xí thạnh thì khởi hoặc tạo nghiệp ba đời lưu chuyển mà có khổ sinh tử.

Ngoài 8 món khổ trên ra còn riêng có 3 khổ: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.

Khổ kh: Thân thể này của chúng ta là thân nghiệp báo, xưa nay trải qua rất là khổ rồi, lại thêm sự kích động từ bên ngoài đến, như: đói, khát, lạnh, nóng, đánh, hại... càng tăng thêm nỗi đau khổ, tức là trên khổ lại thêm khổ, đây là chuyên chỉ cho sự đau khổ trên nhục thể.

Hoại kh: Chỉ cho lúc hiện tượng vui vẻ phát sinh biến đổi, tạo thành đau khổ. Nhân đó mà gọi là khổ biến đổi (biến dịch khổ), đây là món đau khổ cảm thọ trên tinh thần.

 Hành kh: Tức là tất cả hành khổ, chữ “Hành” của hành này là chỉ cho tất cả hiện tượng không thể có hiện tượng trốn khỏi, dời đổi, biến hóa, mà tất cả các hiện tượng lưu chuyển đều là khổ. Món khổ này cùng với “ngũ ấm xí thạnh khổ” (của 8 khổ) là ý nghĩa giống nhau.

Ở trên thuật lại các hiện tượng khổ, chỉ là đối với phàm phu mê hoặc, mới phát sinh tác dụng. Đối với bậc thánh giả đã giải thoát mà nói, là không cảm thọ khổ đó. Song phàm phu chúng sinh thẳng đến hưởng chịu các món khổ, nhưng chỉ cần có thể kịp thời tỉnh giác, tiến tới tu hành, do ở nơi khả năng chân chánh thấy được khổ - KHỔ ĐẾ - lại có thể quán sát ra nguyên nhân của khổ - TẬP ĐẾ  tiến tới muốn đem khổ tiêu diệt  DIỆT ĐẾ - dẫn đến tìm được phương pháp tiêu diệt khổ - ĐẠO ĐẾ. Như vậy cũng có thể khổ giảm thiểu tác dụng cho đến không còn.

3.2 TẬP ĐẾ:

Tập, là chỉ cho sự chiêu tập. Phiền não và đau khổ, chúng sinh thọ lãnh, là từ hoặc nghiệp tham, sân, si của ngã tướng nương nơi nghiệp thọ báo chiêu gom lại. Chiêu tập cái nhân tất cả pháp khổ, cũng chính là căn nguyên của biển khổ sinh tử ba cõi. Tập lấy nghiệp làm nhân, lấy phiền não làm duyên; nghiệp có ba nghiệp: thân, ngữ, ý. Phiền não có: tham, sân, si lại khiến cho thân, ngữ, ý làm việc bất thiện. Cho nên có cái khổ luân hồi ba cõi, tạo thành nguyên nhân sanh tử luân hồi không dứt và tất cả thống khổ tức là “khát ái”. Ý nghĩa một từ “khát ái” này không chỉ là đối với tham cầu và chấp trước của dục vọng; cũng là bao quát đối với sự tham cầu và chấp trước của ý niệm, lý tưởng, quan điểm, ý kiến, lý luận, khái niệm, tín ngưỡng...

3.3 DIỆT ĐẾ:

Diệt là không khác nào chỉ cho khổ được diệt. Diệt trừ phiền não sinh tử. Cắt hết nhân TẬP, diệt trừ đau khổ. Đem cái “khát ái” sở hữu mà diệt đi toàn bộ. Khát ái có thể là đại biểu cho tất cả phiền não, do đó diệt là diệt hết tất cả phiền não, không có nhiễm trước, vắng lặng ẩn mất, cũng tức là Niết bàn. Niết bàn chẳng phải là “diệt không”, mà là xả ly món món chứa nhóm, diệt bỏ tất cả đau khổ, giải thoát khổ não sanh tử của ba cõi.

3.4 ĐẠO ĐẾ:

Đạo là chỉ chung cho Hành. Cần diệt đau khổ, dứt hết nhân tập, chứng được Niết bàn. Đạo là tu hành dẫn đến Niết bàn, có thể lìa luân hồi sinh tử mà vào ở nơi Niết bàn. Đạo này lấy trung dung mà cầu giải thoát, cũng gọi là chánh đạo. Như thế ở trên cuộc sống tu hành cần làm thế nào mới phù hợp với trung đạo ư? Thế thì ắt cần nương lần theo “bát chánh đạo” mà tu trì.