Home > Nhân Qủa Nghiệp Báo
Thiếp Nguyện Hai Điều
Hòa Thượng Thích Minh Châu


Túp lều xiêu vẹo ấy, cô lập bên triền đồi thấp, sau đồi là một dãy trường sơn.

Ðây là gia đình của hai mẹ con thiếu phụ nghèo, sống với nghề trồng hoa. Nhưng tiếp luôn mấy năm hoa bị mất mùa và hư luôn cả giống. Gia đình trở nên túng thiếu, đến nỗi người con gái của thiếu phụ nay đã 16, 17 tuổi mà áo xống không đủ che thân. Người mẹ hy sinh cho con, bà thường xuống núi làm thuê và dặn con đừng ra đường.

Hôm ấy, vua nước A Kỳ La Nại đi săn, khi ngang qua đồi của Trinh Nữ (tên người con gái) bỗng một con chim ưng rất lớn, đậu ngay trên chòi tranh, tiếng kêu thanh thót, vua giương cung bắn, chim chết rơi ngay vào nhà nàng, thấy quan quân vào tìm chim, Trinh Nữ hổ thẹn, núp kín trong cửa và cầm chim quăng ra. Trong đám quân hầu, có vị tướng sư khi vào lượm xác con chim, thoạt nhìn cánh tay của bần nữ rất đẹp. Ông tấm tắc khen ngợi, biết không phải người thường. Năm sau Hoàng hậu băng hà, vua sai sứ tìm người đức hạnh bốn phương. Song mãi chưa tìm được người như ý.

Vị tướng sư nhớ ngày đi săn vào nhà Trinh Nữ, mới đem việc ấy tâu vua. Vua y lời, sai sứ đến tận nhà nàng. Gặp lúc thiếu phụ đi vắng, Trinh Nữ thấy khách đến xôn xao, nàng lại cả thẹn vào núp trong nhà.

Sứ giả đứng ngoài cửa gọi ba, năm lần, nàng không trả lời, thoáng thấy có bóng nàng, mà gọi không lên tiếng, Tướng sĩ cả giận xẵng tiếng:

Bần nữ có nhà không, ra đây!

Trinh Nữ ở trong nhà nói vọng ra:

Các ông là ai? Dám đường đột vào nhà con gái, đi ra mau.

Sứ thần bảo:

Quốc vương sai ta đến đòi nàng, nàng là người hèn hạ, sao dám đuổi sứ nhà vua?

Quốc Vương đòi tôi có việc gì? Ðòi để trị tội ư? Tôi tuy nghèo hèn, nhưng không làm gì phạm đến phép nước cả, còn nếu đòi tôi để sung vào tam cung lục viện, thì các ông là bộ hạ của tôi, sao dám thất lễ?

Không biết làm thế nào, sứ thần về tâu lại. Vị tướng sư tâu vua:

Bần nữ không phải người thường, thật đáng ngôi mẫu nghi thiên hạ.

Vua sắc trăm quan sắm đủ lễ nghi, và 500 cung nữ đem xa giá đến đón nàng. Trăm quan đem xe giá, heo dê v...v... đủ lễ, chuông khánh vang đường. Khi đến túp lều tranh, sứ giả xuống xe, vào làm theo lễ Quốc Mẫu.

Bần nữ theo mẹ ra tiếp sứ và nhã nhặn:

“Cảm phiền quan liêu, ngàn dặm đến đây đón tôi. Tôi tự thẹn mình nghèo hèn thô lậu. Sắc không đẹp bằng hoa Mạn đà, hoa Ưu đàm, tiếng không được thanh tao như đàn cầm, đàn sắc, đức độ không bằng Thánh nhân, trí thức tầm thường, nay phiền quan liêu đến đón, tôi thật cảm kích vô cùng”. Sứ giả và quan Khâm mang đồ sính lễ ra: vàng bạc, ngọc ngà, gấm, nhung, sô nhiễu v...v... 500 thể nữ người dâng áo mão, kẻ mang chuỗi anh lạc và sửa soạn cho nàng xong. Ngắm lại quả là một bậc sắc nước hương trời, lạc loài nơi thôn dã. Phước diện và cử chỉ của nàng thật xứng bậc Mẫu Nghi.

Trinh Nữ cùng mẹ lên kiệu hoa. Xe giá rầm rộ kéo đi như một đạo ngự. Khi xe giá nàng vừa đến cung vua, thì tự nhiên cửa ngọ môn mở rộng, trong chánh điện có hào quang chiếu sáng, mọi người cho là điềm lành của nước.

Vua mặc triều phục, thân hành ra nghinh tiếp, khi thấy bần nữ sắc đẹp lộng lẫy khả ái, vua rất yêu mến và sanh tâm kính trọng. Năm ngàn phu nhân ra lậy mừng, ai thấy Hoàng Hậu cũng đều sinh tâm kính trọng. Vua sách phong Hoàng hậu cho nàng ngay. Trinh Nữ vào cung bảy ngày bảy đêm, nàng không ngủ, chỉ vui chơi với các phu nhân và cung nữ. Tâm nàng thanh tịnh không bợn chút nhiễm ô, nên đối với đức vua nàng thường lánh mặt. Vua sai người đến thăm hỏi, và xin ra mắt. Nàng bảo các phu nhân thưa lại:

Bình sanh tôi có hai điều nguyện: một là được làm Hoàng hậu hai là được gặp Phật. Nay được một, còn một chưa được gặp Phật.

Vua bảo:

Hoàng hậu cho ta gặp mặt, ta sẽ sai người đi mời Phật cho.

Hoàng hậu:

Nếu tôi chưa gặp Phật thì tôi chưa thể gặp vua được.

Vua tức mình, thân hành xuống cung Hoàng hậu.

Hay tin vua xuống, Hoàng hậu vào phòng đóng kín cửa.

Vua nổi xung đứng ngoài phòng bảo:

Ngươi là kẻ hạ tiện, sao dám trái ý trẫm.

Hoàng hậu:

Vẫn biết thiếp là kẻ hạ tiện, nhưng đã về với Quốc Vương thì thiếp cũng là bậc Mẫu nghi. Nghiệt là thiếp đã nguyện được yết kiến Phật trước, mới gặp vua sau. Vậy xin bệ hạ tha tội cho.

Vua càng tức mình:

Ta đủ oai thế, nếu kẻ nào trái ý ta, thì cứ như phép nước trị tội.

Hoàng hậu: Vua là bậc Chí Tôn cầm quyền trăm họ, song trị tội trăm họ cho đúng đạo. Còn nếu chỉ vì ai trái ý mình thì trị tội, ai vừa ý thì ban thưởng, cái ấy thiếp thấy kẻ phàm phu còn chưa làm thay, huống là thiên tử.

Vua giận lắm hét lên:

Thuận ý ta thì còn, trái ý ta thì chết!

Hoàng hậu cũng không vừa:

Thiếp cũng có nguyện của thiếp, nếu được như nguyện thì sống, bằng không như nguyện, thì chết cũng không sợ.

Nghe Hoàng hậu nói quả quyết vua nguôi giận và bỏ nhỏ:

Thế làm sao gặp Phật được?

Hoàng hậu:

Ðức Phật hiện ở nước Xá Vệ, nếu thỉnh Phật thì qua thỉnh.

Trẫm sợ bách quan cười trẫm.

Sao lại cười? Bệ hạ cứ thỉnh Phật về, Phật thăng tòa thuyết pháp, bách quan được thấy Phật, nghe pháp thì sanh hoan hỷ, đời đời còn được phước đức vô lượng.

Thôi, Hoàng hậu an tâm, trẫm sẽ sai người sắm đủ phẩm vật để đi thỉnh Phật.

Sắm sửa xong, vua cho người tin với Hoàng hậu để sai người đi. Hoàng hậu bảo:

Ðức Phật là đấng chí tôn chí thượng, thỉnh Phật thì Ðại Vương phải thân hành đi, chứ không thể ai thay được.

Vua tức lộn ruột:

Nếu ta đi thỉnh thì ta đi, đây ngươi muốn thỉnh thì ngươi đi, chứ ta không đi.

Hoàng hậu:

Ðại vương tuy tôn quý, nhưng thiếp nay là vợ của Ðại vương, nếu thiếp đi thỉnh Phật thì sao bằng đại vương đi, nay Ðại vương cố chấp không chịu đi thỉnh Phật thì thiếp không phải là người của Ðại vương.

Ta với ngươi chưa thành phu phụ, sao gọi là người của ta, ta nhất định không đi.

Biết ý vua đã cương quyết. Nàng làm thinh và từ đấy u sầu bỏ ăn bỏ ngủ.

Vua nghe tin, sợ nàng quyên sinh hoặc trốn đi, nên cho người canh phòng cẩn thận, bốn cửa đều có người coi giữ.

Bỗng một hôm, cung nhân hốt hoảng báo tin là Hoàng hậu biến đi đâu mất. Vua hoảng sợ, cho người bủa tìm khắp nơi. Trong hoàng cung tiếng khóc như ri, náo động cả nước, vì câu chuyện Hoàng hậu mất tích.

Vua rất hối hận, buồn bã bảo các phu nhân:

Bởi vì trẫm không chịu nghe lời đi thỉnh Phật, bây giờ biết sao cho thấy được Hoàng hậu. Thấy vua có vẻ hối hận, đệ nhị phu nhân tâu:

Hoàng hậu thật không phải người thường. Nên đã biến hình ẩn tích đâu đây, nay sự việc đã như vầy, thì theo ý thiếp, Ðại vương nên thân hành đi thỉnh Phật, may ra nhờ oai lực của Phật mà Ðại vương có thể gặp lại Hoàng hậu cũng nên.

Vua đành nghe lời và sắm sửa xe giá lễ vật rồi thân hành qua nước Xá Vệ.

Khi đến nơi, vua đảnh lễ, bạch Phật:

Ðệ tử là quốc vương nước A Kỳ La Nại, tên A Ca Ðạt Lưu xin đảnh lễ yết kiến Ðức Thế Tôn.

Ðức Phật rất hoan hỷ và hỏi thăm quốc dân, quốc sự được yên ổn thái bình chăng?

Vua bạch:

Ðệ tử nhờ đức độ của Tiên vương để lại, nên dân sự được yên ổn. Nay đệ tử đến đây yết kiến Như Lai và thỉnh Phật từ bi khuất thần qua nước hèn của đệ tử, để cho trăm họ được chiêm ngưỡng.

Ðức Phật hứa khả. Vua về rồi, Ðức Phật liền vận thần thông qua nước A Kỳ La Nại.

Vua cùng văn võ ra khỏi thành mười dặm, cung thỉnh Phật vào cung lên pháp tòa. Vua cùng đình thần cùng cung nhân thể nữ đều ra đảnh lễ Phật.

Gặp Phật, vua càng nhớ lại Hoàng hậu, nên tâm hồn vơ vẩn đâu đâu.

Ðức Phật hiểu ý liền Hỏi:

Như Lai thấy được trong lòng đại vương không vui, phải chăng vì Hoàng hậu mất tích?

Vua đem sự tình đầu đuôi bạch Phật.

Ngài mỉm cười liền lấy tay chỉ. Vua theo ngón tay Phật thì quả nhiên thấy Hoàng hậu đương phủ phục một bên của Ðức Phật: đồng thời mọi người đều thấy. Tất cả hoàng cung rất vui mừng.

Vua và Hoàng hậu cùng thiết trai cúng dường.

Phật thọ trai xong. vua đảnh lễ và bạch:

Hoàng hậu xuất thân trong gia đình bần tiện, nay lại được làm Mẫu nghi thiên hạ, lại có thần thuật ẩn hiện như các vị La Hán, là do nghiệp báo, và phước duyên gì?

Ðức Như Lai mỉm cười rồi thuật lại tiền kiếp:

“Hoàng hậu từ kiếp xa xưa, vốn người nước Ca La Việt, là một vị trưởng giả giàu có, sang trọng vô cùng. Nhưng tánh lại xan lẫn keo kiệt, bà lại bóc lột, lấn công lấn của... của kẻ khác, không hề cho ai một đồng nhỏ, lại áp chế hiếp đáp đồng loại v...v... Vì nhân keo kiết, bóp chặt, lấn hiếp người nên nay bị quả báo nghèo khổ bần tiện. Song Ca La Việt tánh ưa đọc sách, học hỏi nên nay được trí tuệ hơn người. Sau được gặp chánh pháp mới biết cúng dường, nhưng tâm chỉ ưa cúng dường mà chẳng chịu bố thí, sau nhờ gặp thiện tri thức khuyến hóa lần lần bớt niệm xan lẫn. Ca La Việt và Ðại vương là hai người thân thiết, nay thành phu phụ. Ðại vương bảy phen sanh loài trời, Ca La Việt bảy phen làm tiên nữ. Ðại vương bảy phen sanh vào kiếp nhân gian, Ca La Việt cũng nguyện sanh theo. Hai người kiếp kiếp theo nhau, nguyện đồng sanh tử. Và cuối cùng được gặp Như Lai nên đều được giải thoát.

Vua nghe Ðức Phật dạy tiền sự của mình, thì rất vui mừng đảnh lể Phật và phát nguyện thọ lãnh năm điều cấm giới, lấy mười điều thiện để dạy muôn dân.

Hoàng hậu mở ba kho báu giúp dân nghèo, và mở trường dạy phụ nữ những nghề nghiệp thiện, nhất là trau dồi tư tưởng và hành động trong sạch. Những ngày trai tiết Hoàng hậu tu “Bát quan trai” và luôn luôn tập cho cung nhân tu các hạnh lành, nhờ đức độ của Vua và Hoàng hậu nên ngoài trăm họ được an cư lạc nghiệp, trong muôn lòng hòa thuận tin yêu.

Một hôm Vua cùng Hoàng hậu nhân xem hoa quỳnh nở. Hoàng hậu bỗng giác ngộ thế sự mong manh nên liền xin Vua xuất gia.

Vua bảo:

Ái khanh là bậc mẫu nghi thiên hạ, nay cạo đầu làm sa môn, trẫm sợ trăm quan chê cười.

Hoàng hậu tâu:

Trước thiếp đã có vô số bậc mẫu nghi, nhưng khi chết chỉ đem theo một mớ tội lỗi của nghiệp phú quý, thiếp nghĩ mà ghê sợ. Vì vậy thiếp chỉ lo vua Diêm Vương không nể mặt, chứ chẳng sợ trăm quan chê cười. Huống nữa, xưa nay kẻ nữ nhân như lửa dữ, như rắn độc v.v... Người trí sợ nữ nhân như rắn độc, lửa dữ, vì sao? Rắn độc, lửa dữ chỉ hại sắc thân một đời, nữ nhân làm hại muôn kiếp trầm luân, sống thì mất thanh danh, chết thì làm quỉ ô uế. Chính thiếp tiền thân một kiếp xa xưa cũng là nam tử, song chỉ vì mê ly nữ sắc nên vô lượng kiếp trở lại nữ nhân. Nữ nhân thật đáng sợ vậy.

Biết ý chí cương quyết của Hoàng hậu, vua phải bằng lòng.

Khanh là người tiên cốt, nay lại ngộ được Phật tâm, quyết chí ly trần, trẫm xin tùy hỷ. Trẫm tự thẹn mình là nam tử, nhưng chót lỡ vương mang ngôi báu bên mình. Vì thái tử còn nhỏ mà quý phi chưa phải là bậc đảm đang quốc sự được. Chứ thật ra huỳnh bào ngọc ấn nặng nề triền phược, làm sao bằng một mảnh cà sa?

Ðược lịnh vua cho xuất gia, Hoàng hậu liền triệu tập tất cả Thái tử, quý phi, cung nữ v.v... rồi dịu dàng dạy vẻ ân cần, nhất là việc trau dồi tâm đức, bỏ các việc ác, làm các hạnh lành và thừa sự quốc vương nuôi dạy thái tử v.v... ta nguyện sớm thành Chánh giác sẽ trở về độ các ngươi.

Ba ngàn cung phi đều cảm động, khóc rống lên, tiếng ảo não trong hoàng cung thấu đến cõi trời Ðao Lợi, vua Ðế Thích thân hành đem cà sa và bình bát xuống cúng dường.

Hoàng hậu tức thời rụng tóc, liền thành Sa môn, thân mặc cà sa vận thần thông giữa hư không.

Tất cả hoàng cung rất đỗi kính phục. Vua A Ca Ðạt Lưu thấy vậy hoan hỷ kính tán:

Hoàng hậu phước đức đồ sộ như núi diệu cao, trẫm rất vui mừng.

THÍCH NỮ THỂ QUÁN

“Phật động lòng thương kiếp đọa đầy

Hóa thân làm tuyết bốn trời bay

Kết hoa sáu cánh sen mười trượng

Giọt tịnh bình xoa dịu đắng cay”.