Ngày xưa, lúc Ðức Phật còn tại thế, một hôm, Ngài ngự cùng chư Tỳ kheo gần thành Vương Xá trong vườn tre.
Lúc ấy, trong thành Vương Xá, vua Tần Bà Ta La đương trị vì. Ðất nước của vua sung túc, phú cường, dân chúng an cư lạc nghiệp, không tranh chấp, không làm hại lẫn nhau, chẳng hay bịnh hoạn đau đớn. Cây trái thạnh mậu, thú vật sanh sôi nẩy nở. Vua là bậc minh chúa, ưa đạo đức, mến phong hóa và lấy đức công bình trị dân. Hay Phật ngự đến, vua và quyến thuộc quy y thọ giáo, và nhờ đó thấu đạt chân lý.
Nhằm tiết xuân sang, trăm hoa đua nở. Trong rừng, các loài chim thi nhau ca hát vui mừng. Vua và Hoàng hậu, có cung phi mỹ nữ theo hầu, xuất hành ngự đến vườn hoa trong Rừng Tre. Cung phi tâu:
“Tâu bệ hạ, ban ngày chúng tôi không thể đến hầu Phật. Vậy xin bệ hạ cho lập trong cung một ngọn Tháp thờ tóc và móng tay của Ðức Thế Tôn. Chúng tôi sẽ được vọng bái thường thường và cúng dường Phật các thứ bông hoa, hương thơm, tàn lọng, cờ phướn”.
Vua Tần Bà Ta La bèn đến bạch Phật: “Cúi xin Ngài ban cho chúng con tóc thừa và móng tay dư để thờ. Chúng con định xây một ngọn Tháp trong cung để phụng thờ Thế Tôn. Ðức Phật ban tóc và móng tay cho vua. Rồi đó, vua Tần Bà Ta La và các bà phi rất cung kính, cho xây một ngọn Tháp thờ tóc và móng tay của Phật, ở ngay giữa Hoàng cung. Từ đó, các bà phi thường vào Tháp dùng đèn, hương hoa, cúng dường Ðức Phật.
Kịp đến khi Thái tử A Xà Thế, vì nghe theo lời xúi biểu của Ðề Bà Ðạt Ða mà giết cha là Tần Bà Ta La và soán ngôi, thì sự thờ cúng trong Tháp bị cấm ngặt. Tân vương ra chỉ thị: “Không ai được cúng gì trong Tháp thờ Thế Tôn”. Từ đó trở đi, đến ngày rằm, không một ai quét dọn trong Tháp cũng chẳng ai đốt đèn, thắp hương và dâng hoa. Trước cảnh đìu hiu lạnh lẽo ấy, những người trong cung, chạnh nhớ đến Tiên vương Tần Bà Ta La, đồng khóc kể rất đau thương: “Bạc phước thay cho chúng ta! Vì đức vua Pháp (chỉ Tần Bà Ta La) mất đi cho nên chúng ta mới chẳng tạo được công đức”.
Tuy vậy, trong đám cung phi có một cô tên Xơ Ri Ma Ti không kể mạng mình, một lòng niệm nhớ đức Phật, can đảm vào Tháp và dọn quét.
Lúc ấy A Xà Thế, đứng trên nóc đền bằng thẳng, trông thấy ánh sáng rực rỡ, phán Hỏi: “Gì lạ thế”. Một bà phi Đáp: “Ánh sáng ấy do cô Xơ Ri Ma Ti thắp đèn trong Tháp thờ tóc và móng tay Phật ánh ra”. Vua cho đòi thể nữ đến: Sao ngươi dám cãi lịnh ta? Thể nữ Đáp: Tôi đành cam cãi lịnh ngài, nhưng tôi làm theo lịnh vua Pháp, đức Tần Bà Ta La. Vua giận giữ, liền ném vào đầu thể nữ một cái dĩa sắt. Thể nữ chết ngay. Trong khi thác, lòng đang hoan lạc tưởng niệm Ðức Thế Tôn nên thể nữ được sanh lên cõi tiên, miền Ðao Lợi.
Tiên nữ thấy rằng sở dĩ được phước là nhờ cúng dường Ðức Phật. Nàng bèn định đến hầu Phật. Trang điểm thanh tịnh, đeo đồ trân bảo, ướp chiên đàn và trầm thủy, mặc đồ đẹp trên cảnh thượng tiên, lại bọc thêm hoa Mạn Ðà La, nàng hiện thân đến chầu Phật. Hào quang Tiên nữ chói khắp cảnh vườn, chỗ Ðức Thế Tôn ngồi. Nàng rải hoa mừng Phật và làm lễ ngồi trước Phật nghe thuyết pháp. Ðức Thế Tôn giảng cho nghe vừa với sức hiểu biết của nàng. Tiên nữ rất vui mừng, hân hạnh được thêm phước đức, như người buôn bán được lợi. Nàng lậy chào Phật và lui về tiên cảnh.
Ðêm ấy, chư Tỳ kheo thức tham thiền, bỗng thấy hào quang chói cả rừng tre. Sáng lại các ngài hỏi Phật. Ðức Thế Tôn giải rằng: “Hào quang ấy của một Tiên nữ, nguyên là cung phi trong đền vua Tần Bà Ta La. Chẳng tiếc thân mạng, nàng đã vi phạm lời ngăn cấm của vua A Xà Thế, vào Tháp thắp đèn cúng dường Như Lai, vì lòng niệm nhớ công đức Phật. Vua A Xà Thế nổi giận giết nàng. Trong khi thác, nàng không quên niệm tưởng Phật nên được sanh làm Tiên tịnh lạc nơi miền Ðao Lợi.
Hồi hôm này, Tiên nữ đến hầu ta, được nghe ta thuyết pháp và thấu hiểu chân lý. Xong, nàng mới trở về Tiên cảnh.
“Này chư Tỳ kheo, vậy các ngươi phải biết điều này: Nên tôn trọng, tán thán, cúng dường Phật, sống đời mà thờ Phật”.
Phật thuyết xong, chư Tỳ kheo lấy làm vui mừng, hoan lạc.
TRÍ GIẢI
“Máu ai đổ xuống đất này. Ðể cho đạo pháp đêm ngày nở hoa”