Home > Nhân Qủa Nghiệp Báo
Chồn Và Sư Tử
Hòa Thượng Thích Minh Châu


Trong thời quá khứ, lúc dòng vua Bra ma na trị vì xứ Ba Ra Na Thi, có một gia đình Sư tử gồm cha, mẹ và hai con, một trai, một gái. Cậu trai tên là Mê Năn. Chẳng bao lâu cậu lớn lấy vợ. Gia đình từ đấy thêm một miệng ăn. Mỗi ngày Mê Năn phải ra khỏi hang, đi đông đi tây, săn thú đem về nuôi dưỡng song thân, vợ và em.

Một hôm, trong khi đi tìm miếng ăn hàng ngày, Mê Năn gặp một con chồn nằm sát trên cỏ, đầu cúi rất lễ phép. Bộ hầm hừ, thét như sấm nổ, chàng Hỏi: Chồn làm gì ở đây?

Bẩm Chúa Công, chồn khép nép thưa, chúng con biết hôm nay có chúa Công đi ngang đây, nên quỳ đón từ sáng sớm đến giờ để chào mừng. Bẩm tánh kiêu hãnh, Mê Năn nghe mấy lời tưng bợ của Chồn, lấy làm đắc ý.

Thế là Chồn biết bổn phận con dân, Chúa Công khen cho đó. Thôi đứng dậy về cùng ta. Chồn vâng vâng dạ dạ, khúm núm đứng dậy và trỗi bước theo sau Sư tử.

Nhưng cha chàng, vừa thoáng thấy người khách lạ vào hang là tỏ ý không bằng lòng ngay:

Mê Năn con, Chồn là giống quỷ quyệt, xảo trá khôn lường, bất nghĩa bất tín, con nên đề phòng mà đừng thân cận. Hãy đuổi quách nó đi cho cha an dạ.

Mê Năn không trả lời, nhưng không đổi ý. Chàng giữ Chồn ở lại làm bạn tác sớm chiều.

Một hôm, Chồn ngọt dịu bảo Mê Năn là chồn thèm thịt ngựa, Mê Năn Hỏi:

Ở đâu có ngựa?

Dạ, ở bờ sông Ba Ra Thi. chồn đáp.

Ngươi hảy dẫn đường ta đi.

Không đợi bảo hai lần, Chồn hối hả làm hướng đạo.

Băng rừng vượt núi, chẳng bao lâu cả hai đến bờ sông, một bầy ngựa nõn nà, lớn có nhỏ có, đang trầm mình dưới nước, hí hú nô đùa. Lẹ như chớp nhoáng, Sư tử phóng mình vồ một con ngựa con rồi lao mình trở lên bờ sông, một mạch chạy về hang, phía sau có Chồn nỗ lực đuổi theo, nét sung sướng lộ trên gương mặt.

Ông lão Sư tử nghiêm nghị: Con đã sanh sự rồi đó, Mê Năn. Ai đời lại dám bắt ngựa của vua mà ăn. Coi chừng, một ngày kia, vua nổi trận lôi đình, sẽ truyền cho lính nã tên thì mười mạng con cũng không còn. Sư tử mà ăn thịt ngựa thì sống lâu bao giờ! Hãy nghe ba, từ nay đừng sanh tâm bắt ngựa nữa.

Mê Năn không trả lời. Quá tin ở tài nhảy cao chạy lẹ của mình, phần một bên Chồn cứ nịnh hót, chàng bất kể lời huấn từ, hễ đôi ba hôm là cùng chồn đi đánh cắp một con ngựa về làm tiệc.

Chẳng bao lâu, Vua hay tin, dạy đem ngựa vào nhốt trong vòng thành không cho ra bờ sông nữa. Thế mà Mê Năn và chú quân sư Chồn vẫn lập thế bắt tha được vài con.

Vua dạy làm chuồng nhốt, song cài cửa khóa. Vô ích. Năm mười hôm là có tin ngựa mất.

Vua giận quá, hỏi kế trừ gian ở các quan. Một vị đại thần tiến cử một tay thiện xạ, có tài giết thú dữ. Vua cho đòi vào và phán hỏi. Nhà thiện xạ quả quyết, nếu Sư Tử còn trở lại, thì trong một phát chàng sẽ hạ mãnh thú, đem xác về nạp vua. Hoan hỷ, nhà vua hứa trọng thưởng.

Ðến đêm, nai nịch hẳn hòi, bên đeo cung, bên vắt tên, nhà thiện xạ ẩn mình trong bóng tối, sau một trụ đá. Tiếng trống trên vọng đài vừa sang canh ba, chàng nghe có tiếng sột sạt. Sư tử tới, phía sau có chú Chồn. Nhưng là tay sảo quyệt, chồn không tiến bước mà núp lại phía sau.

Sư Tử phóng mình một cách nhẹ nhàng lên đầu tường, nhảy xuống đất, chạy bay lại chuồng ngựa. Chàng thiện xạ tự bảo: ” Sư Tử lẹ lắm, bắt ngay lúc này, e hạ nó không được. Chi bằng đợi nó cõng ngựa chạy ra sẽ hay”. Chàng vừa suy nghĩ xong là Mê Năn đã trở lại mé tường, trên vai nặng trĩu một con ngựa. Chuyển hết thần lực, chàng thiện xạ buông tên.

Rống lên một tiếng, Sư Tử té bạt qua một bên, rồi góp sức tàn, nhảy vượt lên mặt thành, bỏ ngựa, miệng kêu: “Ta bị thương rồi”.

Chồn nghe tiếng la của bạn và hơi gió tên bay, biết chuyện chẳng lành. “Thế là hỏng! Thôi đành tiên bảo kỳ thân. Ai có số nấy, ta phải lo phận ta”. Nói xong, Chồn quặp đuôi chạy một mạch về hang mình, không đoái hoài gì đến Mê Năn.

Tuy máu ra nhiều, Mê Năn vẫn cố gắng la lết về với gia đình, nhưng vừa thấy mặt cha, mẹ, vợ, em là chàng ngã ra tắt thở.

Thấy con mình mẩy đẫm máu, cha mẹ Mê Năn biết chàng đã bị bắn trọng thương và chú Chồn gian xảo kia là nguyên nhân của tai nạn thảm khốc. Tức tưởi, mẹ chàng kể lể: “Mê Năn con ơi! Như thế này cho con biết để trước không nghe lời cha mẹ dạy. Hễ chơi với kẻ ác thì không toàn thân là vậy. Nếu con không nghe lời xúi biểu của Chồn thì nay đâu ra nông nỗi này”.

Cha chàng cũng cảm động: “Cha đã nói mà! Kết bạn với kẻ xấu thì cái chung cuộc bao giờ cũng không hay. Con nghe chi đứa nịnh bợ để cho thân thể phải đầm đìa những giọt máu đào của mẹ con đã chan sớt cho con?

Em gái chàng, sụt sùi: “Anh Mê Năn ơi! Anh thấy chưa, trước kia nếu anh nghe lời cha dạy, thì ngày nay anh em ta đâu có chia lìa như thế này. Anh có ăn năn chăng, hỡi anh? Không bỏ vào tai những lời minh chánh, là tự mình làm cho mình mù quáng, người xưa quả nói không sai”.

Vợ Mê Năn cũng khóc: “Tại mình không khéo kết bạn, nên mới chết oan uổng. Ai đời lại hạ mình thân cận với kẻ lòng dạ bẩn thỉu, để cùng với nó bị đời khinh nhạo, chê bai”.

Trên đây là một câu truyện chính Ðức Phật đã thuật lại để giáo hóa một Sa di thường hay lai vãng với những bạn bè không tốt.

Phật thuyết vừa xong, vị Sa di liền tỏ ngộ, đoạn tuyệt với những bạn xưa và đắc quả Tu đà hoàn.

Thiện Tâm

“Nghe lời chê bai mà giận là làm ngòi cho người dèm pha, nghe câu khen ngợi mà mừng là làm mồi cho người nịnh hót”.

o0o

Chim bồ câu và chàng đặt bẫy

 

“Thuở xưa, lúc nhà vua giòng Bra ma na ngự trị tại Bra ma na thi, Như Lai là một con bồ câu sống an vui với cha mẹ, họ hàng trong một cánh rừng nhiều trái ngon nước ngọt. Mỗi ngày, đồng thời với vừng thái dương lố dạng, toàn họ bồ câu đều thức giấc ra khỏi ổ ấm, sè cánh rỉa lông, líu lăng ca hát, rồi chia nhau từng đoàn đi kiếm ăn. Ðến trưa, trời nóng bức, kẻ chui vào những lùm lá tươi mát mẻ ẩn mình, người xuống suối nô đùa trong dòng nước lạnh. Chiều đến, trước sau, các đoàn lần lượt trở về ổ. chờ đêm đến là gác mỏ lên cửa thưởng ngoạn những hột ngọc lóng lánh trên nền trời xanh.

Nhưng bất hạnh thay cho giống bồ câu! Trong xứ có một anh chàng chuyên nghề đặt bẫy chim. Anh ta trét lên cành cây có trái chín một chất nhựa quái quăm. Chim nào dẫm lên đấy là dở chân hết lên, cố đập đến gãy đôi cánh cũng không thế nào thoát nạn. Hớn hở, anh chàng ác độc leo lên bắt từng con đem về nhà, bỏ vào lồng sơn vẽ rất đẹp, nuôi dưỡng như con cưng, đợi đến khi thân tròn thịt béo, anh mang ra chợ bán với một giá rất đắt.

Họ hàng bồ câu nhà ta rất biết cái mánh khóe bất lương của chàng đặt bẫy, thường bảo nhau phải cẩn thận trong khi vào rừng kiếm trái. Nhưng một hôm, quá mê chơi đuổi bắt, ta lại dẫm lên chất nhựa giết chim. Vừa cảm nhận cái rít của nhựa, ta biết nguy, thọc chân trái xuống để lấy chân mặt lên, không dè đôi chân bị giữ ghì lại. Thôi rồi! Còn đâu cảnh đoàn tụ, còn đâu cuộc đời êm ấm trong thanh thoát tự do. Ta cất tiếng thảm sầu kêu to. Cha mẹ, họ hàng vừa bay đến là bóng chàng đặt bẫy lù lù hiện ra dưới gốc cây. Vù một cái, bao nhiêu người thân yêu đều tứ tán, để mình ta trong tuyệt vọng và sợ hãi. Anh chàng thợ bẫy từ từ leo lên, gỡ ta ra khỏi nhựa, ta vùng vẫy muốn bay, nhưng than ôi! Sức con bồ câu non đâu đương với bàn tay lực sĩ. Thôi đành cho số kiếp! Ta được bỏ vào một cái lồng tre, trong đó đã có đôi bà con xa đồng phận.

Chàng thợ bẫy, thấy trời đã gần trưa, quảy lồng ra về. Ðến nhà, anh bốc từng chú câu, bỏ vào một cái lồng lưới lớn. Quả như lời ta đã nghe kể lại trước kho ngộ nạn: trong chốn ngục tù, không thiếu một thức ăn uống nào, lại còn cửa sơn, phòng rộng, kể ra phong lưu không biết gấp mấy lần những cái ổ tranh chốn quê nhà. Nhưng ta biết rồi, tham lấy những cái của này là có ngày đem ra chợ bán. Lập tâm tuyệt thực cho mình gầy vóc hẻo, ta không động đến những hạt thóc no tròn của chủ nhà đặt cạnh bên ta.

Một hôm, hai hôm, ba hôm ta vẫn nén lòng chịu đói. Ðến sáng ngày thứ tư, anh chàng đến thăm. Thấy ta tiều tụy, anh có vẻ lấy làm lạ. Nhẹ mở cửa lồng, anh bắt ta ra và nhẹ nhàng đặt ta lên lòng bàn tay, đưa lên ngang mắt để xem coi vì cớ nào mà ta xanh xao vàng úa. Thấy ta gật gờ, chàng không còn nghi kỵ như lúc đầu, để ta đứng thong thả trên đôi chân run run. Chàng biết đâu rằng ta chỉ đợi chờ phút này. Chàng vừa quay đầu vì có tiếng động sau lưng, ta góp hết tàn lực tung đôi cánh vọt lên cành cao, rồi từ cành này sang cành nọ, ta trở về với núi rừng bao la, để lại tất cả những sung sướng đầy nguy cơ cho anh chàng ác độc”.

Nói đến đây, Ðức Phật thố lộ: “Chàng đặt bẫy kia, chính là Ðề Bà Ðạt Ða ngày nay vậy”.

Thiện Tâm

“Kẻ thù đối đãi kẻ thù

Oan gia đối đãi oan gia

Người nuôi dưỡng tâm ác

Còn tự làm hại mình

Hơn là kẻ thù đối kẻ thù

Oan gia đối oan gia”.