Có một hôm, vua Ba Tư Nặc bạch Phật:
Bạch Ðức Thế Tôn! Ngày trước khi chưa gặp Ngài, tôi thường nghe các ngoại đạo nói thân này chết rồi mất hẳn. Và như thế gọi là Niết Bàn. Ðến nay tuy gặp Phật, đối với vấn đề ấy tôi vẫn chưa thể giải quyết cách nào cho khỏi phải trái với tâm tánh bất sanh bất diệt?
Phật dạy:
Nhân giả! Cái thân thể của ông đó có thường còn không tiêu diệt không?
Bạch Ðức Thế Tôn! Phải tiêu diệt?
Vì thân tôi tuy chưa chết nhưng tôi xét thấy nó thay đổi mãi mãi, như lửa đốt củi thành than, than tiêu ra tro, cho đến tan mất.
Chính vậy, nhân giả! Nhưng ông già yếu như thế dáng mạo hiện giờ có giống lúc còn nhỏ không?
Bạch Ðức Thế Tôn! Giống thế nào được? Khi nhỏ tôi tươi trẻ mà nay già cả thì tóc bạc mặt nhăn...
Nhưng đột nhiên thay đổi như thế chăng?
Bạch Ðức Thế Tôn! Nó ngấm ngầm thay đổi, tôi không hề biết. Khi hai mươi khác lúc mười tuổi, khi ba mươi lại suy hơn hai mươi, đến bây giờ sáu hai tuổi, ngó lại lúc năm mươi thì lúc ấy cường tráng nhiều. Nhưng đó là kể trong chừng chục năm, chứ thật suy xét kỹ càng thì nó thay đổi trong từng phút, từng giây và rồi đây sẽ điêu tàn.
Nhân giả! Ông xét thân thể ông biến hóa không ngừng và sẽ tiêu diệt như thế, nhưng ông có biết trong cái thân sanh diệt ấy có cái gì bất sinh bất diệt không?
Bạch Ðức Thế Tôn! Thật tôi không biết.
Nhân giả! Ông bắt đầu thấy nước sông Hằng lúc mấy tuổi?
Bạch Ðức Thế Tôn! Khi ba tuổi mẫu thân tôi dắt tôi đi bái yết đền trời Kỳ Bà, bấy giờ đi ngang qua sông Hằng tôi đã trông thấy nước sông ấy.
Ông vừa nói thân thể ông thay đổi rõ ràng nhất là trong hàng chục năm. Vậy khi ba tuổi ông thấy nước sông Hằng với mười ba tuổi thấy nước sông ấy, hai cái thấy đó có gì khác nhau không?
Bạch không! Cho đến nay sáu mươi hai tuổi rồi mà sự thấy vẫn cũng như thế.
Nhân giả! Ông lấy làm lo lắng khi thấy thân thể ông tóc bạc mặt nhăn, khi già khác lúc trẻ. Nhưng cái thấy nước sông Hằng đó có trẻ già thay đổi như thân thể ông không?
Bạch không! Cái thấy ấy lúc nhỏ cho đến bây giờ đây không sai biệt gì cả.
Phật dạy:
Nhân giả! Mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy (kiến tánh) chưa khi nào nhăn. Hễ cái gì nhăn thì quyết phải biến đổi, còn cái gì không nhăn thì cái ấy quyết định bất biến. Cái gì biến đổi thì phải tiêu diệt, còn cái gì không biến đổi thì vốn bất sinh diệt. Cái đã không sinh diệt thì đâu có bị sinh tử lưu chuyển. Sao ông không tự giác bản tánh bất sinh diệt ấy mà dẫn câu chết rồi mất hẳn của bọn đoạn kiến ngoại đạo để tự nghi hoặc.
Vua Ba Tư Nặc nghe Phật khai thị như thế liền giác ngộ bỏ thân thì thọ thân, chứ không khi nào mất hẳn.
Như một người ngồi trên chiếc đò, đò đi thì thấy là bờ chạy. Cũng như thế, người ta chỉ nhìn mình hoàn toàn với con mắt sanh diệt. Người ta đã tự phủ nhận giá trị của mình vậy.
Ðạo Phật trái lại, lại phát huy cho ta thấy, trong cái thân thể sinh diệt vô thường có cái bản tánh vô thường bất sinh diệt. Ðạo Phật đã phát huy bản tánh ấy bằng cách căn cứ ngay với các giác quan thô cạn chứ không xa xôi đâu khác. Và khi nói đến bản tánh, bất sanh diệt ấy, thì đạo Phật đã dùng vô số danh từ rất cao đẹp.
Thật ra, chúng ta bất lực, tư tưởng hành động bị “Vô minh” chi phối. Là vì chúng ta không tự ngộ bản tánh ấy. Nếu giác ngộ tánh bất diệt trong sanh diệt thì toàn thể sanh diệt là bất diệt vậy.
Và cuộc đời chúng ta sẽ hiện thân của Từ Bi, sẽ rạng ngời ánh Trí Tuệ, nếu chúng ta luôn luôn sống với bản tánh bất diệt trong cuộc đời sanh diệt.
Ba cõi lầm mê tâm tịch tịnh
Một đời sinh tử tánh thường như Sớm mai thấy nụ hoa hồng nở Nhẹ gót trần sa mộng tỉnh rồi.
Thích Trí Ðức