Home > Khai Thị Phật Học
Kính Lạy Đấng Thế Tôn
Thượng Tọa Thích Phổ Huân


Kính lạy đấng Thế Tôn bậc thầy của nhân thiên, bậc siêu việt trên mọi siêu việt, bậc không thể nghĩ bàn, không thể tán thán, không thể ca tụng, xưng dương hết ý được, do vì những lời lẽ ngôn từ tán thán chỉ là ý thức vọng động phân biệt kẹt chấp trong phạm trù ngôn ngữ thế gian hay có thể nói bao giờ phàm phu chúng ta có thể hành động, có thể đi vào an định trong giáo pháp của Ngài, bấy giờ mới có thể đủ thấy sự tán thán có ý nghĩa và không ý nghĩa!

Bạch Ngài, chúng con hiểu như vậy, cảm như vậy, nhưng vẫn xin được tán thán Ngài, dù lời tán thán kia chỉ là hư vô, chỉ trên đầu môi phát ra từ tâm thức chập chờn nửa tỉnh nửa say; lời tán thán chỉ có giá trị khoảnh khắc thời gian, rồi việc đâu vào đấy, chúng con lại trở về với si mê, sân hận của những phàm tình, ái ngã tự thân. Trong khi lời dạy của Ngài phải được lãnh hội thể hiện qua sinh hoạt hành vi thường tình trong đời sống.

Hôm nay rằm tháng tư là ngày kỷ niệm xuất hiện giáng trần của Ngài trên cõi Ta Bà này, chúng con lần nữa xin được lập lại bao lời tán thán xưa nay. Chúng con thành thật biết rằng, tất cả chỉ là rỗng tuyếch trống không, như người đứng một mình hoang vu giữa sa mạc gào thét; nhưng dù vậy chúng con vẫn làm và sẽ làm mãi cho đến không còn làm được! Vì sao? Bạch Ngài vì nếu không tán thán Ngài, thì làm sao chúng con biết được thế gian đau khổ này lại có sự xuất hiện của Ngài, có giáo lý Ngài, có sự vượt lên khổ, đi vào khổ, sống khổ, hiểu khổ và giải thoát khổ. Nếu cho chúng con sống được ngàn năm, triệu năm, chúng con vẫn một lòng không thay đổi, để cứ mỗi năm rằm tháng tư về, chúng con nhất định không quên tán thán Ngài, và dù cho chúng con có sanh hay đọa vào thế giới nào đi nữa chúng con vẫn một lòng không thay đổi, niềm tôn kính tán thán đức Thế Tôn.

Càng tán thán ghi niệm nhớ Ngài, càng thấy rõ thân phận chúng con, thân phận những người say mê chưa tỉnh. Rồi nhờ tán thán Ngài chúng con mới thấy rõ sự say mê phàm tục chính mình; sự say mê đã làm chúng con cách xa Ngài, không phải chỉ cách xa Ngài bằng thời gian hơn hai ngàn sáu trăm năm ở tận Thiên Trúc, mà cách xa Ngài từ ba cõi hằng vô lượng kiếp đến nay và đâu phải Ngài cách xa chúng con, Ngài vẫn ở bên cạnh con, Ngài đã hằng hữu theo chúng con từng tâm niệm.

Chúng con hiểu rồi! Tất cả chỉ vì say mê nên đã tự làm cách xa Ngài; nhưng Ngài đã từng dạy, Ngài ở trong chúng con, chúng con cũng chẳng khác Ngài “Phật tức tâm, tâm tức Phật”. Ôi thật là mừng, vì xa mà chẳng xa, gần mà chẳng gần, tất cả chỉ là một niệm, trong tâm niệm chúng sanh. Hiểu như vậy mới thấy Ngài gần gũi chúng con hơn, gần đến nỗi chúng con tưởng chúng con là Ngài, rồi tưởng Ngài là chúng con! Thì ra Ngài dạy rằng chánh niệm, chánh giác, thanh tịnh, bình đẳng, vô ngại, bất nhiễm... đó là hình ảnh của Ngài, vậy thì trong chúng con đã giống Ngài không khác và Ngài có khác gì chúng con!

Bạch Ngài, lòng từ bi của Ngài còn có gì để so sánh, Ngài đã cứu chúng con vượt khỏi vô lượng hằng sa thế giới, thế giới vọng động phân biệt nhiễm tình, để một khoảnh khắc quay về thế giới nhứt như bất động, thế giới mà Ngài đã và đang an định. Đó là những gì mà chính Ngài đã từ bi chỉ dạy, nay chúng con đang cố gắng hành trì, nguyện ghi nhận lời dạy của Ngài hóa thành hiện thực.

Bạch Ngài, trên bước đường tu, chúng con vẫn luôn luôn tự nhắc nhở sách tấn những điều hiểu biết như trên, bằng cách ngày ngày kinh kệ, thiền niệm, thúc giục chính mình thức tỉnh, ấy vậy mà vọng tưởng động tâm không làm sao ngưng động được. Chúng con vẫn biết rằng, không một sự thành tựu nào mà không trả giá hy sinh bằng mồ hôi nước mắt, huống chi sự thành tựu giải thoát luân hồi, quá sức phi thường phàm tục thế nhân. Biết thế chúng con đã sám hối, nỗ lực nguyện cầu thần lực của Ngài chứng minh cho đàn con dại còn đang vô minh lạc lối. Nhớ trong bài sám Quy nguyện có đoạn: ... trí phàm phu tự lực khó thành cầu đại giác từ bi gia hộ; dù phải chịu muôn ngàn gian khổ, con quyết lòng vì đạo hy sinh... Bạch Ngài, rõ ràng là vậy, các bậc đại sư tiền bối đi trước, vẫn nhận thức rằng tự lực quả là khó thành, nên cầu tha lực từ bi cứu độ, huống gì đời nay, đời sống đang bị vây bủa biết bao đam mê cám dỗ, vậy sức lực yếu hèn phàm tục như chúng con làm sao tránh được phan duyên nhiễm ái. Sự thật này mà lời chư Tổ xưa vẫn luôn được hòa tụng với chân kinh, để phần nào nhắc nhở khơi động cho kẻ hậu học hiểu rằng: đó là những vị chân tu luôn gia tâm tu hành tinh tấn, nhưng vẫn không thể không lên tiếng nguyện cầu Ngài gia hộ. Nhưng đây không phải nguyện cầu suông mà được, vì tiếp theo là: dù phải chịu muôn ngàn gian khổ, con quyết lòng vì đạo hy sinh. Thế ra phải hy sinh, phải chịu khổ mới thấy được lời nguyện của mình là chân nguyện, là hợp lý hợp duyên, như vậy cũng có nghĩa tha lực vẫn là tự lực; vì tha lực là một dòng sáng thanh tịnh lưu xuất từ Phật lực, mà tự lực lại bằng tâm nguyện chân thật thanh tịnh nơi tâm, nên tỏa ra diệu lực hòa với thần lực, cả hai đều thanh tịnh chân như bất nhiễm. Thế nên tâm niệm tự lực lúc này không còn phân biệt khi đạt đến nhất tâm, đó là giai đoạn Phật tại tâm vậy.

Hiểu được như thế chúng con rất mừng, và không thể ngờ được hình ảnh từ bi trí tuệ, giáo lý siêu phàm của Ngài lại có thể xuất hiện được ở thế giới nhiễm tịnh này.

Thỉnh thoảng chúng con vẫn thường phân vân thắc mắc, làm sao trước khi thành Phật, địa vị Thái Tử như Ngài có thể từ chối dục lạc xa hoa, và chịu đựng được bao nhiêu thử thách trần thế trong thời gian

tầm đạo! Chưa nói là không gian hoàn cảnh chung quanh Ngài, toàn là màu xanh hy vọng, màu sắc yêu thương... Người thân của Ngài có thể nói không ai là không thương quý Ngài; với công chúa Da Du Đà La một giai nhân tuyệt sắc, một hiền thê đức hạnh, thương yêu Ngài chẳng thể tả được, và ngay cả những người làm công, giúp việc như Sa Nặc cũng quý thương Ngài... Tóm lại là cả một khung trời thương yêu phủ khắp quanh Ngài, vậy mà Ngài vẫn có thể ra đi, sự ra đi còn thử thách hơn, khi tiếng khóc La Hầu La, tặng phẩm yêu quý nhất mà hiền thê đã tặng cho Ngài, nhưng Ngài vẫn tự tại chẳng hệ lụy nhiễm tình. Việc này nếu không phải vì một giáo pháp siêu tuyệt nhiệm mầu, sẽ độ vô số chúng sanh thoát ly sinh tử, thì chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ làm được. Vậy thì đúng rồi, Ngài quả thật phi phàm siêu xuất; nhưng, đó là điều tất nhiên của một Bồ Tát đang mang trong người đầy ắp tâm trí từ bi cứu độ chúng sanh.

Thế rồi muôn hoa đua nở, chim hót líu lo, cảnh vật hôm Ngài thành đạo, hóa hiện thành cõi thiên đàng tại thế. Với con mắt trần thế nhân gian, chắc chắn không thể  thấy được, nhưng chư thiên, thiện thần ắt phải thấy rõ; niềm vui bấy giờ không chỉ có ở thế gian mà ở mấy tầng trời.

Rồi sau nầy niềm vui lan xa thêm nữa, lan xa đến ba cõi; cho đến hôm nay niềm vui thật sự đã đến với chúng con.

Bạch Ngài, chính nguyên do như vậy, cho nên chúng con mãi mãi sẽ không quên ánh sáng giải thoát của Ngài; và chúng con dù nói lên bằng lời thô thiển, trí lực mê mờ cũng còn may mắn dâng lên niềm ca ngợi tán thán sự xuất hiện của Ngài. Chúng con lại nghĩ, thương buồn cho hàng chúng sanh thấp kém không phải là người, không hiểu được thế gian hiện còn giáo lý giải thoát của Như Lai, để có thể học được hiểu được, kết duyên đời sau giải thoát.

Tình thương chúng con chỉ có thể cầu nguyện mà không thể tận lực cứu được chúng sanh khác như ý muốn. Nhưng điều này chư Phật, Bồ Tát đã hiểu tâm trạng chúng con, và hẳn các Ngài đã và đang cứu độ hàng chúng sanh này dù vậy thế nào đi nữa, theo lời Ngài dạy, chỉ có chúng sanh cõi người mới đủ nhân duyên học Phật, hàng chúng sanh khác phải bị nhân quả nghiệp lực thọ mạng nghiệp báo khổ đau, khó thể sánh bằng hoàn cảnh nhân thiên. Do đó khi chuyển được kiếp người, đâu được mấy người hiểu Phật. Thực tế như vậy, hiện nay nhân số địa cầu, người tin Phật chẳng được một phần mười; rồi trong gần một phần mười đó, số người hiểu biết học tu, có thể chỉ còn một phần trăm, phần ngàn mà thôi. Thế thì nói rằng giáo pháp giải thoát vẫn còn trên thế gian,   mà thế gian đâu có bao người hành được. Chúng con muốn nói hành được là chứng quả Thánh như thời tượng pháp vậy.

Thôi thì còn hiểu được còn biết được cũng là đại duyên, nguyện rằng chỉ cần nghe được giáo lý của Ngài dù chưa lãnh hội vẫn tạo duyên lành đời sau nhập đạo. Riêng chúng con căn trí lu mờ sơ cơ vào đạo, lại vì nghiệp chướng sâu dày không thể thực hành được phần nào lời dạy của Ngài, nên phiền não thường sanh, vọng tưởng thường phát, chỉ luôn nguyện rằng, xin được tán thán Ngài để làm ánh sáng soi đường, nhắc nhở tấn tu bớt đi vọng động.

Hôm nay nhân mùa tháng tư, lễ kỷ niệm ngày Đấng Thế Tôn đản sanh xuất hiện ở thế gian, bằng lòng kính mộ chúng con xin được kính dâng lên lời tán thán, với một tâm thành cúng dường ca tụng, nguyện Ngài rũ lòng lân mẫn chứng minh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

2005