Hòa thượng Giác Khang có tên khai sinh là Tô Văn Vinh, thầy sinh năm 1941 tại tỉnh Bạc Liêu. Thầy là con thứ 8 trong một gia đình thuần nông. Thân sinh của thầy là cụ ông Tô Khanh và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Vén. Thầy sau này khi lớn lên có dịp được đi học hành tử tế, tốt nghiệp Tú Tài và học Cao đẳng Sư phạm, khi thầy ra trường đi dạy học ở một ngôi trường thuộc Cái Côn, tỉnh Cần Thơ.
Trong suốt thời gian đi dạy học, thầy Thích Giác Khang có sở thích nghiên cứu các nền tôn giáo khác nhau, trong đó có Phật giáo. Sau này, thầy cảm nhận được lời Phật dạy qua câu “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”, nhờ đó giúp thầy ngộ được đạo lý bình đẳng của đạo Phật.
Từ đó, thầy Thích Giác Khang tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về giáo lý Phật giáo và đến tham vấn nhiều chư Tăng về sự xuất gia cũng như các kiến thức liên quan. Thầy dần dần đã cảm nhận được lòng từ bi của chúng Tăng ni, Phật tử qua giáo lý ăn chay và sau đó sư thầy chính thức phát tâm trường chay.
Tóm tắt quá trình tu học của thầy Thích Giác Khang
Vào năm 1966, sư thầy Thích Giác Khang chính thức phát nguyện xuất gia tu học nương theo Bổn Sư là Trưởng lão Tri Sự Giác Như tại Tịnh xá Ngọc Vân tại tỉnh Trà Vinh. Cũng trong năm đó, thầy đã thọ giới Sa di tại Tịnh xá Ngọc Vân, tỉnh Trà Vinh.
Vào tháng 7 năm 1971, sư thầy Thích Giác Khang thọ giới cụ túc Tỳ kheo tại Tịnh xá Ngọc Viên thuộc tỉnh Vĩnh Long, rồi luân chuyển đến các Tịnh xá thuộc Giáo đoàn I để tu học, nhằm góp phần cùng chúng Tăng ni, Phật tử hoằng pháp độ sinh tại nhiều nơi khác nhau trên cả nước.
Đầu năm 1975, thầy Thích Giác Khang theo Đoàn du Tăng Khất Sĩ của Đức Nhị Tổ và chúng Tăng ni trong đoàn hành đạo tại tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu.
Đầu năm 1980, sư thầy Thích Giác Khang theo đoàn hành đạo về huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
Không chỉ tại địa phương, mà tại các đạo tràng có nhu cầu thỉnh pháp, sư thầy Thích Giác Khang đều đến để thuyết giảng các bài giảng Phật pháp. Những nơi mà thầy đã từng đặt chân đến thuyết giảng có thể kể đến gồm có: Tịnh xá Ngọc Trường, Chùa Phước An, Chùa Phước Thành, Chùa Thanh Quang. Các tịnh xá ngoài tỉnh như: Tịnh xá Ngọc Lợi – Bạc Liêu, Tịnh xá Ngọc Viên – Vĩnh Long…
Sau này, đoàn hành hương của thầy Thích Giác Khang có cơ hội di chuyển đến Thái Lan để thăm viếng các chùa chiền ở đó. Đoàn dừng chân khoảng 1 tuần tại Thái Lan và có ý đi Miến Điện để chiêm bái các Thánh tích nơi đây.
Tuy nhiên về sau, sức khỏe của thầy Thích Giác Khang ngày một yếu dần, chúng Tăng ni và Phật tử phải tận tình chăm sóc. Thầy khi đó đã cảm nhận rằng mình không còn có thể tại thế được dài lâu thêm được nữa.
Cho nên thầy đã trình tâm nguyện của mình lên Hòa thượng Giác Giới – Tri Sự trưởng Giáo đoàn 1 liễu tri để Hòa thượng có thể giúp tạo duyên tu học cho chúng Tăng ni và Phật tử đạo tràng Tịnh xá Ngọc Vân.
Chi tiết các giai đoạn tu hành của thầy Thích Giác Khang
1. Giai đoạn thứ 1
Vào năm 1966, thầy Thích Giác Khang xuất gia theo hệ phái Khất sĩ tại Tịnh xá Ngọc Vân thuộc tỉnh Trà Vinh. Thầy có 2 Bổn Sư là Nhị Tổ Giác Chánh và Đức Trị sự Giác Như. Từ năm 1968 cho đến năm 1983, thầy theo Nhị Tổ Giác Chánh đi hành đạo khắp nơi ở miền Tây Nam bộ. Sư thầy Thích Giác Khang đã học được “Chơn lý” và hành trì “Trú dạ lục thời” theo giáo lý Khất sĩ của Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang.
Cũng trong giai đoạn 1968 1983, thầy Thích Giác Khang thường xuyên nhập vào định tam thiền và tìm chỗ vắng vẻ để nhập vào thiền định từ 7 – 9 tiếng mỗi ngày, nghiền ngẫm thuần thục bộ “Chơn lý”.
Thế nhưng trong quá trình tu học, thầy cảm thấy bế tắc về Bát nhã, về con đường giải thoát và cảm thấy thất vọng vô cùng. Trong lúc chán nản, thầy bất chợt nhìn trên kệ kinh thấy quyển “Đường vào hiện sinh” của Kisnamurti do Trúc Thiện dịch, thầy Thích Giác Khang đã đọc và ngộ được Chân lý cao siêu Bát nhã.
Kể từ đó, sư thầy luôn tìm đọc những quyển sách do Trúc Thiên, hay cụ Mai Thọ Truyền dịch,…
Đến năm 1983, do tình hình thời thế có sự thay đổi, sư thầy Thích Giác Khang trở về Tịnh xá Ngọc Vân. Vào năm 1985, Đức Trị sự Giác Như viên tịch, giao nhiệm vụ trụ trì lại cho thầy. Tại đây, trong các buổi cúng hội, sư thầy giảng giải chuyên về Chơn lý và dạy tu thiền định đã thu hút rất đông chúng Tăng ni, Phật tử theo dõi.
2. Giai đoạn thứ 2
Sau thời gian giảng dạy, thầy Thích Giác Khang khi này bắt đầu bị lâm bệnh. Sau những ngày hôn mê trên giường bệnh, khi tỉnh dậy thì thầy có suy nghĩ rằng: Trong thời buổi này tu pháp môn Thiền tông thật khó mà đắc Thánh quả.
Khi đó, thầy nhờ Phật tử thỉnh quyển kinh A Di Đà của Tri Húc Đại Sư. Thầy đọc được câu thơ “có thiền, có tịnh như cọp mọc thêm sừng” của Đại Sư Vĩnh Minh và từ đó quyết định bước vào giai đoạn “Thiền – Tịnh song tu”.
Sư thầy Thích Giác Khang bắt đầu nghiên cứu các kinh sách về Tịnh độ tông như pháp môn Tịnh độ của Hòa thượng Thích Trí Thủ, Niệm Phật Tập Yếu của Ngài Thiền Tâm, Lá thư Tịnh độ của Ngài Quang Đại Sư…
Sau đó, thầy bắt đầu giảng dạy thiền tông phối hợp với Tịnh độ tông cho chúng Tăng ni, Phật tử. Trong các bài giảng dạy, thầy đặt ra 6 câu hỏi về pháp môn Tịnh độ, Phật tử từng bước trả lời các câu hỏi đó.
Về sau, khi nhiều ngôi chùa thỉnh thầy về giảng giải trong các ngày Phật thất, thầy đã thêm một câu hỏi nữa, đến nay là 7 câu hỏi về pháp môn Tịnh độ vẫn còn sử dụng cho đến ngày nay.
3. Giai đoạn thứ 3
Qua bộ kinh Trung Bộ, thầy Thích Giác Khang đọc được bài kinh Sáu Sáu, thấy Đức Phật giảng thực tế đi vào trong cuộc sống, sau khi Đức Phật giảng xong có 60 vị Tỳ kheo đắc quả Alahán. Từ đây, mỗi ngày sư thầy đều đặn phối hợp Duy thức giảng bài kinh Sáu Sáu.
Tuy nhiên, thầy thấy lối giảng này chưa được sáng tỏ, thầy tiếp tục tìm chỗ ẩn tu để suy gẫm vào chiều sâu. thầy tìm đến Sư Thức đang tu tịnh ở tỉnh Sa Đéc. Đây là vị Sư được Nhị Tổ quan tâm, cũng là vị Sư mà thầy thường hay nhắc đến trong quá trình giảng pháp của bản thân.
Trong thời gian tịnh tu, sư thầy Thích Giác Khang đã đặt thêm 4 câu hỏi nữa, tổng cộng là 10 câu hỏi của bài kinh Sáu Sáu. Thầy rất tâm đắc đoạn kinh Đức Phật chỉ dạy Ngài Anan nhận lại Bát nhã qua 6 căn ngay trong lúc đánh chuông. Bên cạnh đó, thầy còn nghiên cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm do bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám dịch.
Sau khi kết thúc khóa giảng lần 2, thầy nhận thấy vẫn chưa vừa ý nên đã đi tịnh tu tại Đà Lạt, do phật tử Tịnh Giới cất cái cốc dưới thung lũng xa thành phố cho Ngài. Trong thời gian này, thầy thường xuyên đi vào rừng sâu, suối, thác ghềnh để nương cảnh tạo tâm.
Vào năm 2007, chúng Tăng ni, Phật tử thỉnh thầy thuyết giảng bài kinh Sáu Sáu lần thứ 3. Thầy giảng bài kinh Sáu Sáu phối hợp giữa kinh Nguyên thủy, Đại thừa, Tiểu thừa. Thầy chọn kinh Thủ Lăng Nghiêm, Duy thức, bộ sách của cụ Nghiêm Xuân Hồng và pháp môn Tịnh độ lồng vào bài giảng kinh Sáu Sáu.
Lần này, sư thầy Thích Giác Khang giảng giải đi vào chiều sâu của Bát nhã, giúp ứng dụng ngay trong thực tế cuộc sống.
4. Giai đoạn thứ 4
Trong giai đoạn này, sức khỏe của sư thầy Thích Giác Khang bắt đầu có dấu hiệu bị giảm sút. Thầy khi này đã định an trí và thường nói cho một ít Phật tử thuần thành là thầy sẽ chọn Sư Minh Hiệp để làm người kế thừa, sau khi thầy viên tịch Sư Minh Hiệp sẽ tiếp tục công việc hướng dẫn Tăng chúng.
Sau đó, thầy gọi vài Phật tử kết tập lại bài giảng của thầy qua 5 chuyên đề: Muốn vãng sanh về xứ Cực lạc của Phật A Di Đà có mấy điều kiện, Nhận thức về Tái sanh – Chứng ngộ – Vãng sanh, Khổ Đế về nhân sinh quan, Khổ Đế về Vũ trụ quan, Nhân quả và nghiệp. Các chuyên đề này đã được thầy giám sát chặt chẽ lối hành văn, có diễn đạt sáng tỏ giữa tư tưởng và Bát nhã hay không, có rơi vào ngũ ấm ma hay không.
Bên cạnh đó, thầy còn lo về thân để phật tử tu thiền định dễ dàng, đồng thời để giúp đỡ cho những người nghèo khó, thầy đã lập ra quán cơm gạo lức từ thiện. Ngoài ra, thầy còn lo về tâm, lập ra Ban Hộ niệm để giúp đỡ những người sắp lâm chung được vãng sanh về thế giới Cực lạc. Kết quả là được nhiều người vãng sanh lưu lại xá lợi.
Vào năm 2012, Phật tử thỉnh thầy Thích Giác Khang giảng bài kinh Sáu Sáu lần thứ 4. Đợt giảng này tụ tập rất đông chúng Tăng ni, Phật tử mới, trong những buổi giảng đầu tiên, thầy đã đưa ra 3 câu chuyện: Tổ Bồ Đề Đạt Ma và vua Lương Võ Đế, Sư Huyền Giác và Lục Tổ Huệ Năng, Bảy trạm xe để trắc nghiệm lại trình độ Phật pháp của chúng Phật tử.
Thầy thường khuyên chúng Phật tử nên tổ chức đi đến sông lớn, biển Ba Động ngồi thiền định, để thấy được cảnh mông lung, bao la mà soi rọi lại tâm của mình. Sau khi trắc nghiệm xong, thầy thấy được cần phải quay trở lại giảng “Bài học vở lòng” đó là 4 đường ác và người trời dục giới cho đến lúc thầy đi Ấn Độ.
Năm 2013, vào tiết tháng 3 nắng nóng kéo dài, thầy định đi tịnh tu ở Đà Lạt, thế nhưng có những Phật tử lại thỉnh thầy đi chiêm bái Thánh tích của Đức Phật tại Ấn Độ.
Khi trở về, thầy bắt đầu lâm trọng bệnh. Trong 5 ngày cuối đời, thân bệnh của thầy diễn biến từng bước y như thầy thường giảng pháp qua 3 thân đưa đến cảm giác, tư tưởng như thế nào.
Thầy Thích Giác Khang khi đó có cho mời Hòa thượng Giác Giới là Trị Sự của Khất sĩ Giáo đoàn 1 đến để thầy trình bày rõ nguyện vọng đó là “giao trụ trì lại cho Sư Minh Hiệp sau khi thầy viên tịch”.
Đến tối ngày 29 và qua ngày 30 tháng 3 âm lịch, thầy bắt đầu đi vào cõi mông lung, do đó các máy không đo được mạch và áp huyết của thầy.
Thế nhưng thầy vẫn còn rất là tỉnh táo. Sáng ngày 30/3, bác sĩ Tùng đến chăm sóc cho thầy rồi nói “Bây giờ tùy Sư, Sư muốn chết thì chết, Sư muốn sống thì sống, chứ mạch và áp huyết như thế này thì người thường đã chết từ lâu rồi”.
Thầy cười và nói rằng: “Cám ơn bác sĩ, làm phiền bác sĩ quá, không sao đâu.” Gần đến 3 giờ chiều, thầy dặn dò chúng Tăng ni và Phật tử đôi điều rồi căn dặn tổ chức tang sự cho thầy phải thật giản đơn để không hoang phí tiền bạc. Thầy viên tịch vào lúc 15 giờ 30 phút chiều ngày 30/3/2013.
Hòa thượng Thích Giác Khang viên tịch đã để lại nhiều ấn chứng như bắt đầu châm ngọn lửa hỏa táng, hào quang rực rỡ tỏa sáng bao quanh kim quan, tỏa sáng trên tháp hỏa và hào quang tỏa sáng cả bầu trời, ngoài ra thân xác của thầy khi hỏa táng xong còn để lại vô số xá lợi đủ màu sắc.
Trích từ: Tu Viện Quang Đức