1. Triều đại nhà Đường, thầy Thích Pháp Thông là đệ tử của Quốc Trung Thiền sư. Từ lúc thơ ấu, Thầy đã là người có chí hướng và rất chuyên cần chăm học Phật pháp. Quốc Trung Thiền Sư là đệ tử thượng túc của Ngài Trí Tạng ở chùa Khai Nguyên. Thầy Pháp Thông thấy ngôi bảo tháp của Sư Ông mình kiến tạo lâu năm ở núi Tập Công đã bị hư hoại nên phát tâm muốn trùng tu nhưng lại không có đủ tài chánh. Thầy bèn phát nguyện tuyệt thực bảy ngày, chuyên mặc niệm Thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát. Do tâm chí thành nên cảm đến Đại Sĩ và các vị thiện thần sơn linh, nên bỗng nhiên nơi chùa của Thầy ở xuất hiện một con suối có linh tuyền (suối linh) phun nước. Dân chúng nghe tin thì từ khắp nơi, tất cả những người bị bệnh đều đua nhau đến xin nước về trị bệnh thì đều được lành bệnh. Nhờ đó, Phật tử về chùa cúng dường, tiền bạc rất nhiều, ngôi bảo tháp của Sư Ông Thầy Thích Pháp Thông chỉ trong một thời gian ngắn đã được hoàn thành viên mãn. (Trích Văn Bia của Tháp Bảo Quán).
2. Triều nhà Đường, Thiện Giác Thiền Sư tu ở Hoa Lâm, tại huyện Đầm Châu. Vào một ngày nọ có Bùi Tướng Quốc đến viếng Thiền sư, Tướng quốc đi vào Thất không thấy có thị giả, bèn hỏi Thiền sư: “Sao Ngài không nuôi Thị giả mà ở một mình vậy?” Thiền sư đáp: “Quốc tướng không thấy đó thôi, chứ hiện giờ bần tăng đang có hai người thị giả ở đây”. Dứt lời Thiền sư gọi: “Đại không, Tiểu không”. Tức thì có hai con mãnh hổ từ phía sau thất chạy đến, Thiền Sư bảo chúng: “Hiện giờ đang có khách, hai Ông tạm tránh đi một chút.” Hai con mãnh hổ vâng lời, gầm thét rồi lui đi. Quốc Tướng thấy chuyện lạ bèn hỏi: “Ngài tinh tấn tu trì pháp môn chi mà cảm được thú dữ thuần phục như vậy?” Thiền Sư im lặng, cầm xâu chuỗi đưa lên rồi nói: “Sơn Tăng này không biết tu pháp môn gì cả, ngày ngày chỉ chuyên niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát.” Bùi Tướng quốc nghe nói cảm động đảnh lễ, khi lễ lạy xong thì phát nguyện: “Thầy được như vậy, con cũng xin bắt chước”. Sau khi về dinh, Tướng quốc ngày đêm lễ Phật và niệm Phật rất tinh cần. (Trích Sơn Đường Tứ khảo).
3. Triều nhà Đường, thời vua Hy Tôn, niên hiệu Quang Khải, năm thứ ba vào năm Đinh Mùi. Bấy giờ tại Khai Nguyên tình hình như vạc nước sôi, giặc Hoàng Sào Lý Khắc Dụng nổi dậy, chúng tới đâu thì tàn sát nhân dân, cướp của đốt nhà ở đó. Dân chúng sợ hãi muôn phần vì chiến tranh diễn ra khắp nơi. Đương thời có người tên Tiền Lưu ở xứ Lâm An, huyện Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, là người có sức mạnh kinh thiên, không ai sánh được, lại có thiện chí bảo vệ người dân. Một hôm, giặc Hoàng Sào kéo đến. Từ trong đồng cỏ rậm, Ông đứng dậy, tay cầm một cây côn bằng gổ lớn rồi lao vào bọn giặc, bắt sống tướng giặc Hoàng Sào là Hoàng Tru Xương. Tất cả binh sĩ giặc mất chủ tướng thì như rắn không đầu, bỏ chạy tán loạn. Nhờ đó, chiến tranh được chấm dứt. Từ đấy, nơi nào có loạn, Tiền Lưu đến dẹp và thường lập đại công. Triều đình bèn phong cho Ông làm Quan Thứ Sử tại Hàn Châu, toàn dân xứ này nghe tin Tiền Lưu làm Quan thì vô cùng mừng rỡ. Sau khi Ông bái yết để lãnh chức Thứ Sử, với chí nguyện vì dân, Ông càng cố gắng rèn luyện võ thuật, dân chúng trong vùng rất khâm phục kính trọng Quan Thứ Sử. Ông mong muốn đưa quân vào vùng đất phía Nam để giúp vùng đất đó được an bình và không bị ai xâm lấn nhưng vẫn còn do dự chưa quyết định. Đêm ấy, Ông nằm mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ hiện thân khuyên bảo: “Nhà ngươi có tâm Từ bi che chở vạn dân, lại không nở giết người, nhờ công đức ấy sẽ được tấn phong làm Bình phiên vương của nước chư hầu, khi xuất quân đều bách chiến bách thắng. Sau này, Thiên tử ở Khai nguyên dù thay đổi đến năm họ nhưng bờ cõi nước của ngươi vẫn củng cố, tự tại, không ai dám xâm lấn. Chẳng những thế mà phước lộc trường tồn, tử tôn miên viễn, được phong vương bái tướng không thể cùng tận. Hai mươi năm sau, Ngươi hãy đến tìm Ta tại non Thiên Trúc.” Tiền Thứ sử tỉnh giấc, lấy làm lạ nhưng biết chắc được Bồ Tát hộ trì nên càng quyết tâm mạnh mẽ thực hiện chí hướng vì dân vì nước. Nơi nào có loạn, ông điều binh dẹp loạn đều thành công. Những lời Bồ Tát dạy trong mộng, mọi việc đều ứng hiện không sai nên họ Tiền đều viết lại vào sổ sách để nhắc nhở con cháu đời đời kính thờ Đại sĩ, hàng ngày lễ niệm xưng danh để nhờ đức Từ bi của Bồ tát minh gia được nhiều an lạc. Thế nên con cháu họ Tiền trước sau là chín đời thì bốn đời làm vua, năm đời làm Tể Tướng Đại giang Đông Tây, lộc uyển bảo thường, … kể đến số ngàn người đều do Tiên vương sáng tạo. Đến hai mươi năm sau, đúng ngày như Bồ Tát dặn dò, Ông rời bỏ mọi sự của thế gian, lên non Thiên trúc, cất am tu hành, hàng ngày chuyên tâm xem Kinh, lễ Phật, niệm Phật. (Trích Thiên Trúc Chí).
4. Đời hậu Đường, niên hiệu Trường Hưng, năm thứ ba, vào lúc tháng ba, năm Nhâm Thìn, Võ Túc Vương Tiền lưu ở Ngô Việt vừa tạ thế. Người con giữa của Ông là Nguyên Quang Lộc dù lên kế vị cha nhưng trong tâm vẫn còn sợ sự ác độc hung tàn của Châu Toàn Trung nên trong tâm không được yên. Ông quyết định đến một nơi biệt lập, phát nguyện trai giới thanh tịnh một tuần lễ, đoạn đích thân đi đến trước tượng Quan Âm Bồ Tát, chí thành lễ bái xưng niệm, dập đầu xin Bồ Tát cho một giấc mộng để diệt trừ tâm nghi hoặc mê mờ. Vào một đêm, Ông nằm mộng thấy rừng núi đều trải vấm góc, vô cùng đẹp đẽ, chói sáng rực rỡ như mặt trời. Quang Lộc hết sức vui mừng thốt lên: “Đây là sự nghiệp tiên vương của Ta vậy. Từ đây Ta một lòng vì dân, lo việc nước, ngủ trên gối nệm sẽ được bình yên, họ Châu kia đâu làm gì Ta được.” (Trích Yên Túc Chí).
5. Đời nhà Tống vua Thái Tổ, niên hiệu Kiểng Long, năm đầu. Vương Tiền Thúc xứ Ngô Việt được Thái Tổ Hoàng Đế cho tước vị nhưng trong tâm vẫn còn tiến thoái chưa quyết định. Ông liền đến trước tượng của Đại Sĩ, chí thành lễ bái cầu đảo, mong Ngài chỉ rõ cho tâm tư hết mê mờ. Ông giữ trai giới thanh tịnh, ngủ riêng một mình trong bảo điện. Một đêm, Ông nằm mộng thấy có Thần nhân mặc y phục tử bào, ra lệnh cho các vị tướng soái có đến hàng trăm người, đều mặc kim giáp, cầm dây ngũ sắc từ bờ sông Bắc Giang, Dương Tử giăng làm ranh giới cho đến Dự Chương, Mân Việt mới thôi. Tiền Thúc được gọi đến dạy rằng: “Vùng sơn hà này là cố vật của Ông”, dứt lời thì đem áo mão trao cho. Khi thức giấc, Tiền Thúc mừng vui, tự nói: “Ta không còn lo sợ nữa.” Lập tức Ông chọn ngày dâng biểu lên Thái Tổ Hoàng đế xin nhậm chức và sai sứ giả đem lễ vật cống hiến. Thái Tổ Hoàng đế tiếp biểu rất vui mừng, đãi yến tiếp sứ giả. Khi sứ giả ra về, Thái Tổ căn dặn: “Về báo tin với chúa của ngươi là Trẫm rất hoan hỉ, nhờ Ông ấy bình phiên một chuyến để trợ giúp Trẫm trị vì, không phụ lòng Tiên đế.” Vương Tiền Thúc từ ấy với Đại Sĩ không một phút xao lãng lễ bái, xưng niệm, cúng dường rất kiền thường hàng ngày để cảm niệm ân đức của Ngài đã thùy từ chỉ dạy. Sau đó, Ông cho xây dựng một ngôi bảo điện để thờ Thánh tượng của Đại Sĩ. (Trích Thiên Trúc Chí).
6. Triều nhà Minh, niên hiệu Vạn Lịch, Phật tử Bao Bằng ở huyện Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang là người học rộng hiểu nhiều, cao tài của đương thời nhưng lại không may là thi nhiều lần đều bị hỏng. Ông là người lưu tâm đến giáo pháp của Bổn sư Thích ca và Khổng Tử, nhất là với Kinh Phổ Môn thì có tâm tín kính nên hàng ngày đều chí thành trì tụng. Một ngày nọ, Ông đi đến Mão Hộ, ghé vào một ngôi chùa làng, thấy tượng Quan Âm Bồ Tát đứng ngoài trời, mưa ướt dầm dề, vì ngôi chùa ấy cũng hư sập gần hết. Ông lập tức mở túi, thấy có mười lượng vàng thì liền kính cẩn đem trao cho vị Trụ trì để tu bổ cho ngôi chùa. Tăng chủ không nhận và nói: “Đạo hữu có lòng tốt rất quý, nhưng trùng tu ngôi chùa này phải mất nhiều tiền của mà số vàng cúng dường này thì không nhiều nên khó có thể hoàn thành.” Ông nghe nói thì lấy ra bốn xấp vải tốt, bảy chiếc áo ấm dồn bông mới may, lúc ấy người tớ đi theo lật đật đến xin để lại, đừng cúng dường thì Bao Bằng đáp: “Ta chỉ mong làm sao Thánh tượng Đại Sĩ được kín đáo, không bị mưa dột thì dù thân này có bị phơi trần cũng không hề chi.” Tăng chủ nghe nói cảm động tuôn nước mắt bèn nói: “ Đạo hữu cúng dường mười lạng vàng, bốn xấp vải, bảy chiếc áo, việc ấy không khó gì nhưng cái tấm lòng thành kia thì không thể lấy gì đổi được.” Khi trùng tu ngôi chùa đã xong, Bao Bằng đến nghỉ trọ lại một đêm. Ông nằm mộng thấy Quan Âm Bồ Tát đến bảo: “Ta ban cho con cháu của ngươi sẽ được hưởng lộc vị trong đời.” Về sau, quả nhiên, con của ông là Biện Châu và Thánh Phương đều thi đậu cao, làm quan nội triều, hết sức vinh hiển. Những người này cũng noi theo gương Cha, tin Phật pháp, tu hành tinh tấn, dù ở địa vị quyền quý, cũng không hề lãng xao. (Trích Tiên Tâm Lục).
7. Triều nhà Minh, Phật tử Trần Kiến Truyền Tổ, một hôm nọ đến chùa La Hán, tại Lê Lý, huyện Ngộ Giang, tỉnh Giang Tô. Ông trông thấy một ngôi bảo điện sắp sập, Quan Âm Bồ Tát trên đầu phải đội nón lá, Tổ bùi ngùi rơi lệ than rằng: “Bồ tát là bậc đủ đại bi, đại trí, ban phước, ban huệ cho chúng sanh, không thể nào để Ngài ở trong cảnh khổ sở như vậy, ” Nói rồi liền phát nguyện trùng tu bảo điện, mong nhờ công đức này có thể được vài đứa con cháu mình học sách, làm quan là mãn nguyện. Khi về đến nhà, Ông đem việc này bàn với vợ. Bà nghe nói rất vui mừng, nói rằng: “Hiện nay trong nhà chúng ta có vài trăm tạ gạo, Ông mau đem bán lấy tiền rồi cố gắng hoàn thành việc làm công đức này.” Sau khi bán gạo được số tiền lớn, Ông mang đến Chùa cúng dường và tỏ bày ý nguyện cùng Tăng chủ. Tăng chủ thấy Phật tử Truyền Tổ thành tâm nên nhận tiền và hết sức lo lắng cho công việc trùng tu bảo điện để sớm hoàn thành, nên chỉ trong thời gian ngắn thì ngôi bảo điện hư sập đó đã trở thành ngôi bảo điện trang nghiêm. Về sau quả nhiên con cháu của Truyền Tổ là Ngưu Trung và tằng tôn là Mông Đẩu đều liên tiếp thi đậu cao, làm quan nội triều rất vinh hiển. (Trích Tuyền Tân Lục).
8. Triều nhà Tống, Ngài Thích Cầu Na Bạt Đà La, (Trung hoa dịch là Công Đức Hiền) dòng Sát Đế lợi là vị Pháp sư thâm nhập Tam tạng, thông đạt giáo lý Đại thừa. Niên hiệu Nguyên Gia, Ngài có ý hướng Đông Du để tuyên giảng Hoa Nghiêm Kinh, nhưng khổ một nổi là tiếng Trung Hoa Ngài không được thông suốt nên Pháp sư thường ôm lòng hổ thẹn, ta thán chẳng biết làm thế nào. Thế rồi một hôm Ngài nhớ đến Quan Âm Bồ Tát là bậc đại từ đại bi, có thể làm mãn nguyện cho tất cả chúng sanh. Vì vậy Ngài chuyên cần ngày đêm sám hối, bên cạnh đó lại hết lòng chí thành đảnh lễ xưng niệm danh hiệu Quan Âm Đại Sĩ, mong Ngài minh gia để được toại với bổn nguyện. Một đêm, Pháp sư nằm mộng thấy Thần nhân, một tay cầm kiếm, một tay xách đầu người, đổi cho Pháp sư. Pháp sư giật mình thức dậy và từ ấy về sau, Ngài bỗng thông thạo tiếng Trung quốc còn hơn cả người bản xứ. Trong thời gian lưu trú tại Trung Hoa, Ngài giảng Kinh Hoa Nghiêm đến mười mấy biến. Mỗi khi diễn giải, thính giả dưới pháp toà đều hết lòng thành phục hoan nghênh. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 1).
9. Triều nhà Đường, niên hiệu Trinh Quán, Thầy Thích Nguyên Khang, du học ở Kinh bắc. Trước đây, Thầy ẩn tu nơi sơn dã, hằng ngày thành tâm xưng niệm Thánh hiệu Quan Âm, mong cầu Bồ tát minh gia, phát sanh huệ giải. Do tâm chí thành nên cảm đến Bồ tát, một hôm có con nai trắng từ trong rừng ra đến chổ am của Thầy, sừng của nó có đến ba gạc, hình dáng đẹp đẽ khác thường. Thầy Nguyên Khang thấy con nai vừa đẹp, vừa dạn dĩ nên thường ngày, Thầy thường vuốt ve, chăm sóc và nuôi dưỡng nó như niệm Phật và chú nguyện cho nó. Khi có việc phải đi xa, Thầy cưỡi bạch lộc như cưỡi ngựa, dù đường có xa đến mấy, vẫn không thấy bạch lộc này lộ vẻ mệt mỏi. Thầy Nguyên Khang từ ấy phát huệ, biện tài vô ngại, thường ở nơi chùa An Quốc, giảng giải Tam luận cho đại chúng nghe, lại viết Sớ giải thích ý nghĩa bộ Trung Quán Luận, đặc biệt là dịch nghĩa của Bộ Huyền Khu Tổng Thuyết (2 quyển), Minh Tông, Chỉ Trung Luận, Bách Luận và Nhị Môn Luận. (Trích Cao Tăng truyện – Tập 3).
10. Triều nhà Tống, Tú Giác Vĩnh Minh Thiền sư Hưng Viên Thọ, tức là Liên Tôn Lục Tổ Thiên Thai đắc pháp nơi Thiên Thai triều Quốc sư. Tổ thường tu Pháp Hoa Sám pháp hai mươi mốt ngày. Sau đó Ngài mộng thấy Quan Âm Bồ tát dùng nước cam lồ rưới vào miệng, sau đó Ngài được biện tài vô ngại. Ngài trước tác bộ Tần Cảnh Lục (một trăm quyển), dung thông các pháp quy tâm, sau đó lại trước tác thêm bộ Vạn thiện Đồng Quy Tập (ba quyển), phát minh chí thú không hữu tánh tướng, cật lực nêu cao cảnh sách, khuyên hàng Phật tử phải chân tu và quy hướng về lý trung đạo. Hằng ngày, mỗi thời khóa, Tổ niệm Thánh hiệu Di Đà mười vạn biến, chuyên tu Tịnh nghiệp, nguyện cầu vãng sanh. Tổ ở chùa Vĩnh Minh mười lăm năm, độ hàng đệ tử xuất gia đến một ngàn bảy trăm người và truyền trao giới Bồ Tát cho đại chúng. Thường ngày, Tổ thí thực phóng sanh, làm tất cả công đức đều hồi hướng về Tây phương Tịnh độ. Niên hiệu Khai Hoa, năm thứ tám, ngày 26 tháng 2, vào lúc sáng sớm, Tổ thức dậy, thắp hương cúng Phật, rồi từ biệt đại chúng. Tổ ngồi kiết già, niệm Phật rồi vãng sanh. (Trích Võ Lâm Cao Tăng Sự lược).
11. Triều nhà Tống, Nghĩa Tịnh Pháp sư họ Hồ, người ở Mẫn Châu tuyên giảng các KInh luật và viết Sớ chú thích các Kinh. Lúc Pháp sư ngụ nơi chùa Dục vương, huyện Tứ Minh, nằm mộng thấy mình đến chùa Quốc Thanh ở Tây phương. Chùa có một bảo đài rất trang nghiêm, trước đề ba chữ “Văn Thù Đài”, Pháp sư rất muốn vào nhưng không thể vào được vì bốn phía hàng rào ngăn cách rất kiên cố. Pháp Sư đứng phía ngoài bèn chuyên tâm niệm Phật, bỗng thấy Quan Âm Bồ tát từ nơi điện đường, chậm rãi đi ra tiếp đón Pháp sư. Chỉ trong chốc lát, Ngài có cảm giác thân mình và thân Bồ tát như một, không thể phân biệt. Sau cơn mộng, Ngài giật mình tỉnh giấc thì từ đấy trở đi bổng có biện tài vô ngại, giảng diễn các kinh luận, và tinh tấn gấp bội hơn trước. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 3).
12. Triều nhà Tống, Tuân Thức Thiền Sư, là con nhà họ Diệp ở Tuyền Châu. Thân mẫu của Thiền sư thường ở trước Thánh tượng Quan Âm, chí thành khẩn thiết lễ niệm, cầu nguyện mới sanh được Thiền sư. Thiền Sư là bậc học vấn cao thâm, chuyên tu khổ hạnh, nhất tâm niệm Phật, cầu về An dưỡng. Thiền sư thường gắng sức thực hành Ban chú Tam muội, lấy chín mươi ngày làm kỳ hạn. Ở đạo tràng vì quá khắc khổ, nên Thiền sư bị chứng lạc huyết, hai chân bị nứt nẻ, nhưng Thiền sư vẫn tự thệ dù chết vẫn không thối chí. Một đêm nọ Thiền sư nằm mộng thấy Bạch Y Quan Âm đến, đưa ngón tay vào trong miệng Thiền sư, kéo ra vài con lãi. Từ đầu ngón tay của Bồ Tát, phun nước cam lồ rót vào miệng của Thiền sư, bấy giờ Ngài cảm thấy thân tâm mát mẻ, nhẹ nhàng, bao nhiêu bệnh tật trước đây đều lành hẳn. Khi mãn kỳ hạn ra khỏi đạo tràng, đảnh tướng của Thiền sư cao hơn một tấc, hai tay thòng xuống quá gối, âm thinh như tiếng đại hồng chung, hoàn toàn khác hẳn với ngày trước. Tứ chúng Phật tử đương thời, thấy vậy, ai nấy đều tán thán và kính ngưỡng. Thiền sư sáng lập chùa Hạ Thiên Trúc vài trăm gian và kiến tạo Quang minh Sám đường. Mỗi khi gác một cái đòn tay hay lợp một miếng ngói, đích thân Thiền sư tụng bảy biến Chú, nhờ công đức này mà trải qua ba lần giặc giã loạn ly, tất cả các nơi đều bị thiêu đốt thành tro tận nhưng Hạ Thiên Trúc Tự và Quang Minh Sám Đường đều bình yên vô sự, đây chính là nhờ công đức và năng lực tu trì kiên cố của Ngài mà được như vậy. Thiền Sư trước tác quyển Tịnh Độ oai nghi, Hạnh nguyện Dị mộng, cùng với các bổn Sám nghi như Tịnh Độ Sám pháp, Kim Quang Minh Sám, v.v… để lưu hành trong thiên hạ. Quốc vương nhà Tống phụng hiệu cho Thiền Sư là Từ Vân Sám chủ. (Trích Võ Lâm Cao Tăng Truyện).
13. Triều nhà Tống, Uẩn Đề Pháp sư hiệu là Thanh Biện, họ Châu là người Tiên Đường. Pháp sư từng mắc phải chứng bệnh dịch, chạy chữa trăm phương đều vô hiệu, Pháp sư tự biết bệnh này ngoài Phật lực ra thì khó mong được khỏi nên Pháp Sư chí thành lễ bái xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm. Một đêm nọ, Pháp sư mộng thấy có một người đến, dùng đục vạch ngực Pháp sư để đổi trái tim mình, sau đó lại dùng tay xoa vết thương rồi bỏ đi. Khi giật mình tỉnh dậy thì bệnh của Pháp sư tự nhiên lành. Bấy giờ tất cả Kinh Luật luận Pháp sư đã xem từ trước đều nhớ lại và rất thông lý thú, lại có thể hạ bút thành chương, xuất ngôn thành bảo điển, mọi người đương thời đều cho là nhờ Pháp sư nhờ thành tâm lễ bái xưng niệm Quán Âm mà được biện tài vô ngại, là sự việc minh chứng hiển thực. (Trích Phật Tổ Thống Ký).
14. Triều nhà Tống, Minh Giáo Đại Sư Khế Tăng tự là Trọng linh, sống tại chùa Linh Ẩn, huyện Hàn Châu. Ngài là con của họ Lý, xứ Đồng Tân tỉnh Quảng Tây. Đại Sư xuất gia từ lúc bảy tuổi, liền thọ giới cụ túc. (Theo Luật Thiền Viện do Phật chế lập thì hai mươi tuổi mới được thọ giới cụ túc nhưng do Đại Sư là trường hợp đặc biệt, dù tuổi còn nhỏ nhưng lại có đủ năng lực nghiêm trì giới cấm nên dù chưa đến tuổi vẫn được cho phép thọ giới). Đại Sư thường đội Thánh tượng Quán Âm trên đầu, chuyên niệm danh hiệu Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát mỗi ngày mười vạn biến. Đại sư thông đạt Tam tạng kinh điển, lại có sức nhớ rất dai. Ngài trước tác Bộ Phụ Giáo Luận hơn mười vạn lời, Thiền Môn Định Tổ Đồ, Truyền Pháp Chánh Tôn Kỷ và Phụ giáo thiểu vị. Đại Quan triều Tống là Hàn Trung Hiếu Công cùng với Âu Dương Văn Trung Công đều tán thán, kính trọng Pháp sư là bậc đạo cao đức trọng đương thời. Niên hiệu Hy Ninh triều nhà Tống năm thứ tư, vào tháng sáu, Pháp sư thị tịch. Lúc trà tỳ xong thì trong sáu căn, có ba căn không hoại là nhãn căn, thiệt căn và đồng chơn, cùng với xương đầu, xâu chuổi niệm Phật. Năm vật ấy vẫn còn y nguyên, lưu xuất những hạt xá lợi sắc hồng bạch rất tinh khiết, hình trạng bằng hạt tiêu lớn. Trong Bộ Đàm Tân văn tập (hai mươi quyển) có ghi chép và lưu hành trong đời. (Trích Phật Tổ Thống Ký).
15. Triều nhà Tống niên hiệu Hy Ninh có người tên là Trang Hỉ ở huyện Hội Kê, tỉnh Chiết Giang, sanh trưởng trong một gia đình nghèo khó nên từ thuở bé đã không được đi học như những đứa trẻ khác. Trang Hỉ tự biết hoàn cảnh của mình nên rất buồn tủi, bèn phát tâm dõng mãnh hàng ngày trì niệm Thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát không gián đoạn để nguyện cầu xin trí tuệ. Đến một ngày nọ thì tự viết chữ được, lại có tài làm kệ, làm thơ. Nơi đây trích một bài thơ của Ông như sau để minh chứng cho việc nương nhờ sức trí huệ của Quán Âm Bồ Tát mà phát sanh được trí tuệ.
ÂM:
Địa lô vô hỏa nhất năng không
Tuyết tợ dương hoa lạc tuế cùng
Khất đắc trừ ma phùng hại nạp
Bất tri thân tại tịch liêu trung.
NGHĨA:
Lò đất không lửa, một túi không
Tuyết giống hoa dương rơi mãi mãi
Xin được chỉ gai, vá nạp y
Chẳng biết thân này trong liêu vắng.
16. Triều nhà Thanh có thầy Thích Chú Am là người ở tỉnh Giang Nam. Thuở thiếu thời, tính tình của Thầy rất thô lổ và cộc cằn. Một hôm, tại nơi Thiền viện ở Vương Châu, Thầy tranh cãi với Phạn đầu sư, thốt ra những lời vô lễ, hạ nhục Phạn đầu sư. Vị Tăng chủ trong Thiền viện biết được việc này nên đem ra trước đại chúng quở trách nghiêm khắc, răn đe nếu không hối cãi sẽ tức thời đuổi ra khỏi Thiền viện. Lúc ấy, Thầy mang lòng căm giận trong lòng, dự tính sẽ tìm cách trả thù vị Tăng chủ. Nhưng đến lúc nửa đêm thì bỗng tự thấy hối hận với ý nghĩ lúc chiều là vô cùng tội lỗi nên phát tâm sám hối. Thầy tự suy tư không biết làm cách gì để gột rửa tội lổi này, muốn đi các nơi học đạo thì lại thấy phận mình là kẻ đáng khinh nên suốt đêm trằn trọc không thể nhắm mắt, mãi đến lúc trời gần sáng thì thoạt nhiên tự ngộ: Ta thường nghe nói người nào chí tâm trì tụng Thần chú Đại bi của Quán Âm Bồ Tát thì căn nguyên của tất cả các pháp đều thông suốt lại có thể chứng đắc vô thượng quả. Ta đây dù thuộc về hàng ngu dốt vẫn có thể trì tụng Thần chú Đại bi, vậy sao Ta lại không cố gắng mà tự gây trở ngại cho chính mình. Đến sáng thì Thầy đến trước Tăng chủ cầu xin sám hối tạ tội. Sau khi sám hối xong thì bày tỏ ý nguyện được đóng cửa ba năm chuyên trì tụng Thần Chú Đại Bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu xin Tăng chủ từ bi cho mượn một tịnh thất và giúp đỡ phí tổn về y phục, ẩm thực, thuốc men trong ba năm. Tăng chủ nghe qua thì vô cùng hoan hỉ liền ưng thuận. Thầy liền dời chổ ở vào tịnh thất trên lầu thờ Kinh tạng, ngày đêm chuyên trì thần chú không hề giải đãi. Trước ngực lại treo một bảng nhỏ viết hai chữ “Cấm ngữ”, khi có người lên lầu thờ Kinh muốn nói chuyện với Thầy, Thầy liền chỉ vào thẻ bài nơi ngực để đáp lại. Như thế trải qua ba năm, lúc mãn kỳ ra thất, khi Thầy bước ra, đại chúng đều nhìn thấy thần sắc của Thầy đổi hẳn, dung nhan luôn vui vẻ, tươi cười, tánh tình khiêm hạ, ai trông thấy Thầy cũng đều cung kính. Một hôm nọ có một số vị khách đến chùa để xem Kinh nhưng không hiểu nghĩa lý trong Kinh nên họ đến chất vấn Thầy, có rất nhiều chỗ khó giảng giải nhưng Thầy vẫn vui vẻ đọc Kinh Luận và giảng cho họ nghe lưu loát như nước chảy, tất cả đều kinh ngạc tán thán. Sau một thời gian thì mọi người mới biết Thầy chẳng những thông thạo về nội điển mà cả với bộ bách gia của chín học phái lớn cũng thông suốt, văn thơ truyện đọc của thế gian Thầy không cần để mắt vẫn có thể đọc thuộc. Bấy giờ có một vị Đại quan là Văn Đạt Công từ quan về quê, nghe danh của Thầy liền đến Thiền viện để cùng đàm luận, Thầy đối ứng thông suốt như nước chảy, không hề mệt mỏi. Văn Đạt kinh ngạc tán thán rằng cảnh sở chứng của Thầy đã vượt ra ngoài nhân thiên, không một học giả nào có thể sánh bằng và suy lường được. (Trích Vương Canh Tân Chú Am Đại Sư truyện).
17. Triều nhà Tống có thầy Thích Tống Uyên họ Cung, là người xứ Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, tánh tình điềm đạm và ưa ở ẩn nơi thanh vắng. Hàng ngày, Thầy chuyên tâm trì tụng Kinh Phổ Môn để cầu tuổi thọ do trước đây, Thầy có gặp một vị Thầy tướng số, Ông này cho biết số mạng của Thầy rất ngắn, nên phải cố gắng tu trì. Vào niên hiệu Thái Bình năm thứ năm, lúc tháng mười, Thầy biết trước ngày giờ viên tịch nên nhờ một người thợ mộc làm cho mình một cái pháp tòa giống như đầu con nai, lại luôn hối thúc thợ phải làm cho xong và bảo thợ đến ngày ấy, lúc chúng Tăng thọ trai xong thì mình có việc phải dùng đến. Đến ngày ấy, quả nhiên sau khi chư Tăng thọ trai xong thì Thầy vào trong pháp tòa, ngồi niệm Phật mà viên tịch, hưởng thọ tám mươi ba tuổi. (Trích Cao Tăng truyện – Tập 3).
18. Triều nhà Tống, niên hiệu Thuần Hy năm đầu, có một nữ Phật tử đã trên tam mươi tuổi tên là Trịnh Thị, sống tại Thường Kiều, tỉnh Ngô Giang. Ngày ngày, bà lão đều đến chợ quyên góp tiền với tâm nguyện là tạo nên Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát. Bà cất số tiền xin được trong một cái bình sành lớn để dành để thực hiện tâm nguyện của mình. Một hôm nọ, nhà hàng xóm bị hỏa hoạn nên lan qua túp nhà tranh của bà mà cháy rụi. Sau khi lửa tắt, bà nghĩ chắc bình sành đựng tiền cũng bị thiêu cháy hết rồi nên đứng nhìn đống tro tàn mà trong lòng đau buồn, hai dòng lệ tuôn rơi. Trong tâm Bà quá luyến tiếc nên đến nơi tro tàn bới tìm, Bà ngạc nhiên khi thấy bình sành vẫn còn nguyên vẹn, phía bên trong khi mở ra thì nhìn thấy một pho tượng Quán Âm Bồ Tát trang nghiêm đẹp không thể tả, thế gian khó có thể làm nên, lại có đủ thứ vòng anh lạc, tịnh bình, dương liễu. Ở trong vùng ấy có một nhà cự phú họ Vương, biết việc hy hữu này bèn đến nơi xin bà lão cho thỉnh tượng về nhà thờ để hàng ngày lễ bái xưng niệm cúng dường. Gia đình này vốn là người có tâm nhân từ, chẳng những xin thỉnh Thánh tượng mà cũng kính thỉnh lão bà về nhà nuôi dưỡng vì bà không có con cháu, lại nhờ Bà lo việc hương đăng nơi bàn Phật và tụng kinh niệm Phật. (Trích Nam Hải Từ Thoàn).
19. Triều nhà Minh có Huỳnh Ngạn Sĩ ở Tô Châu, cưới vợ là Nhan Thị. Vì mới cưới nên đôi vợ chồng này khắng khít không rời nhau. Lúc ấy tại Tô Châu có loạn, dân chúng đua nhau chạy giặc nên hai vợ chồng nhà này cũng chạy loạn. Chẳng may trên đường chạy trốn thì bị lạc nhau. Nhan Thị lúc lạc mất chồng rồi thì vô cùng sợ hãi, thân gái nơi xứ lạ quê người nên đến lúc trời tối không dám xin trọ nhà người nào, đang lủi thủi trên đường thì bỗng gặp một ngôi cổ miếu, Cô định bước vào trong để trọ tạm qua đêm tại đây thì nghe có tiếng người nói từ bên trong nên Cô hoảng sợ định bỏ chạy. Lúc ấy bỗng có tiếng nói cất lên: “Cô nương đừng hoảng sợ. Tôi đây là một Ni cô.” Nghe hai chữ Ni Cô, Nhan Thị vui mừng trong lòng, liền bước vào cổ miếu thì nhìn thấy một Sư bà tuổi đã lớn. Hai người dù chưa quen biết nhau nhưng khi gặp nhau đàm luận lại cảm thấy rất thân tình. Đến sáng, Sư Bà nói với Nhan Thị: “Con tuổi còn trẻ, đi đường một mình e có nhiều bất tiện, hiện tại trong hành lý của Ta có áo và mũ cho con cải trang, con nên thay đồ và theo Ta về nương tựa ở Am tranh”. Nhan Thị vâng lời cải trang theo Sư Bà về am thất, ngày ngày quét tước dọn dẹp, lo việc hương đăng trên bàn Phật để Sư bà tiện đi lo Phật sự. Nói về Ngạn Sĩ lúc chạy giặc thì lạc mất vợ nên lòng buồn lo vô hạn, tìm kiếm khắp nơi trong ba năm mà vẫn không thấy, trong lòng nghĩ thầm “chắc vợ Ta trong lúc loạn lạc đã gặp phải nạn tai”. Ngạn Sĩ lưu lạc rày đây mai đó, viết mướn độ nhật qua ngày. Một ngày nọ, Anh bỗng nhớ đến người bạn đồng học hiện đang làm quan ở tỉnh Chiết Giang nên thuê chiếc ghe nhỏ, mướn người chèo để đến tìm bạn. Khi đi đến Gia Hưng thì gặp tuần hải binh đến nên vội cho ghe tấp vào bờ, Ngạn Sĩ lên bờ nghỉ ngơi, trong lúc ngồi nghỉ, Anh nhìn quanh thì thấy trong bọng cây lương khô có một cái gói rất đẹp nên mở ra xem thì thấy bên trong là một cái hộp đựng đầy vàng.
Ngạn Sĩ vui mừng khôn xiết tự nói “Đây là trời cho ta!” Nhưng khi xem kỹ lại thì thấy có một quyển sổ ghi rõ danh tánh của những người cúng dường nên Ngạn Sĩ sực tỉnh, dặn lòng không được tham lam, đừng cho là của người bỏ rơi mà tự cho mình quyền thọ dụng. Đây là tài vật của Tam bảo nên chỉ một nén vàng thôi đã không biết là bao nhiêu công đức, huống hồ đây là cả một hộp vàng. Nghĩ rồi, Ngạn Sĩ cho dừng ghe ở lại nơi ấy để chờ người bỏ rơi quay lại nhận. Trải qua hai ngày thì thấy có một Sư bà ở đâu chạy đến, đập đầu vào thân cây than khóc thảm thiết. Ngạn Sĩ đến hỏi thăm nguyên do thì Sư Bà cho biết trước kia có phát nguyện sẽ rước thợ làm một Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ nên thời gian qua đã đi quyên góp tiền khắp nơi để dành được ba mươi lượng vàng. Ngày hôm kia khi đang trên đường về thảo am, khi đi ngang qua đây thì gặp tuần hải binh. Trong lúc vội vàng sợ hãi không biết cất giấu số vàng nơi nào thì nhìn thấy gần đó có một bọng cây khô, bèn đem giấu nơi bọng cây ấy, giờ đây không còn nhìn thấy nữa nên Sư bà quá đau buồn chỉ muốn chết tại đây. Nghe xong không nói một lời, Ngạn Sĩ liền trao trả lại hộp vàng. Sư Bà muôn phần cảm động nói không nên lời, vái tạ người đã cứu mạng mình nên Sư Bà nói: “Từ đây đến thảo am của Tôi chỉ còn chừng hai mươi dặm. Xin Ngài đừng phụ lòng thành, xin quá bước đến đó để Tôi được mời một bữa cơm chay và đưa Ngài đến trước Đại Sĩ để tỏ bày thanh đức và cùng lễ bái cho Ngài được phước thọ miên trường”. Ngạn Sĩ lúc ấy trong bụng cũng có phần đói vì đã hai ngày vất vả đợi người đánh rơi đến nhận lại của, lại thấy Sư bà tha thiết mời về am nên ưng thuận theo chân Sư Bà. Khi đến thảo am thì Nhan Thị ra mở cửa, hai vợ chồng bất ngờ gặp lại nhau nên nắm tay òa khóc, rồi thuật lại cho Sư Bà nghe duyên cớ lưu lạc nhau mấy năm nay. Lúc ấy có nhà buôn muối họ Uông là gia đình triệu phú trong vùng, khi nghe tin Ngạn Sĩ là người trọng đạo nghĩa, khinh thường tiền tài nên vội đến thảo am mời cả hai vợ chồng về nhà rồi lấy lễ đối đãi như thượng khách, giữ chân hai vợ chồng ở lại một thời gian rồi đem tiền bạc vật dụng tặng cho hai vợ chồng Anh, lại sai người đưa về Tô Châu. Về sau vợ chồng Ngạn Sĩ sanh được một trai, một gái. Trai thì trí huệ, thông minh, hình dung tuấn tú còn gái thì hiền đức, dung mạo đoan chính. Một ngày nọ, vợ chồng Ngạn Sĩ tự nghĩ: “Chúng ta ngày nay ở trong cảnh đầy đủ, con cái nên người chính là nhờ ân đức của Tam bảo từ bi gia hộ, chúng ta nên thỉnh Thánh tượng của Quán Âm Bồ Tát về thờ phụng”. Hai vợ chồng Ông bèn thỉnh Thánh tượng Quán Âm về thờ, ngày đêm chiêm bái đảnh lễ, tụng kinh niệm Phật rất tinh tiến, cả hai vợ chồng Ông đều hưởng thọ đến tuổi thượng thọ. (Trích Hải Nam Nhất Chước).
20. Triều nhà Thanh, niên hiệu Khang Hy có Phật tử tên Lử Tẩu ở tại Giang Nam. Lử Tẩu là người nhân hậu hiền lương, thích làm thiện sự. Với việc xấu ác của thế gian, Ông thường không nói đến nhưng việc thiện lương của người thì cật lực tuyên dương không biết mệt mỏi. Mỗi sớm mai khi thức giấc đều tụng kinh Phổ Môn, Chú Đại Bi trăm biến. Lúc năm mươi hai tuổi, Ông bị bệnh nặng, hôn mê bất tỉnh, cả nhà đều lo sợ bèn đến trước Bảo tọa của Quán Âm Đại Sĩ đồng dâng hương lễ bái cầu nguyện. Đêm ấy, trong giấc mộng, Ông thấy Đại Sĩ hiện thân bảo rằng: “Số mạng nhà ngươi sắp hết nhưng vì lúc bình sinh ưa thích thực hành thiện sự, lại tụng kinh chú rất kiền thành nên tuổi thọ được tăng thêm hai kỷ nữa. Ta nhắc ngươi hãy ghi nhớ từ đây về sau, phải cố gắng khuyến hóa tất cả thế gian nên nhận biết rõ làm lành thì được phước, tạo ác thì mang họa, lý báo ứng đó không sai một mảy mai”. Lúc tỉnh dậy, bệnh tật của Ông lành hẳn. Từ ấy, Ông càng cố gắng thực hành thiện sự và khuyên nhủ mọi người theo lời dạy của Bồ Tát không một chút xao lãng. Về sau ông hưởng thọ đến bảy mươi sáu tuổi. Đến lúc mãn kỳ, thân không bệnh khổ, tâm thần minh mẫn, niệm Phật mà tạ thế. (Trích Nam Hải Tử Thoàn).
21. Triều nhà Tấn có Phật tử Vương Dân ở Gia Lang, tỉnh Sơn Đông. Vì gia không có con nên vợ Ông đến trước Quán Âm Đại Sĩ chí thành lễ bái cầu xin có con nối dõi. Thời gian sau, Vương Dân trong lúc đi đường nhìn thấy một vị Hồ Tăng thì sanh lòng cung kính cúi đầu vái chào. Vị Tăng ấy nói: “Khi Ta chết sẽ về làm con của người”. Không bao lâu thì vị Tăng này chết, cùng lúc ấy vợ Dân thụ thai. Đứa bé khi vừa hạ sanh thì liền biết nói, lại thông thạo về Phạn âm và ngôn ngữ của mười sáu đại quốc và ba nước Tây Vức, thông minh trí huệ không ai bì kịp, căn tánh lại phi phàm. Cha mẹ đặt tên là A Luyện, đứa bé thường thuật lại những việc đời trước của mình rõ ràng như ngày hôm qua. Khi lớn lên, học hành rất giỏi, thi đậu cao nên được chọn làm quan nội triều, ra làm quen đến chức Thượng Thư. (Trích Biện Chánh Luận).
22. Đời Lưu Tống có một người tên là Đạo Hức, là người ở Châu Ích, vốn là tín đồ sùng phụng Đạo giáo. Trên 50 tuổi rồi nhưng Ông vẫn chưa có con nối dõi. Nhà Ông ở gần một Tịnh xá Phật giáo. Niên hiệu Cảnh Bình, vị Tăng trong Tịnh xá thường thấy Ông vì không có con mà buồn rầu nên khuyên bảo Ông: “Nếu Ông chí thành tin theo Phật pháp, lễ bái Quán Âm Bồ Tát và tụng kinh Phổ Môn, chắc là có hy vọng có con nối dõi”. Nghe xong Đạo Hức liền bỏ Đạo giáo, một lòng thành kính qui mạng Quán Âm Bồ tát. Hàng ngày cả hai vợ chồng cùng tụng kinh Phổ Môn và lễ bái xưng niệm Đại Sĩ. Đến một ngày nọ, Ông nằm mộng thấy điều lạ thường, sau đó thì vợ Ông có mang và sanh được một đứa con trai. (Trích Minh Tường Ký).
23. Đời Lưu Tống, Biện Duyệt Chi là người ở Tế Ân, tỉnh Sơn Đông, đã 50 tuổi nhưng không có con. Vợ Ông thấy vậy nên đi cưới thiếp cho Ông nhưng nhiều năm trôi qua vẫn không có con. Ông bèn đối trước tượng Quán Âm Bồ Tát chí thành lễ bái cầu xin có con kế tự, lại phát nguyện tụng kinh Phổ Môn ngàn biến. Khi vừa đủ số thì người thiếp có mang, đến đủ ngày tháng, sanh được một bé trai mặt mày sáng sủa dễ thương, lúc ấy là vào niên hiệu Nguyên Gia, năm thứ 18. (Trích Minh Tường Ký).
24. Triều nhà Đường, Từ Tạng Thiền Sư họ Kim có người cha tên là Võ Lâm. Lúc trước khi sanh Ông, cha của Ông nhiều năm trôi qua không có con nên phát nguyện ấn tống Kinh Quán Âm một ngàn bộ để cầu xin được một đứa con trai và nguyện khi đứa con trưởng thành, mong cho nó sẽ phát đại Bồ đề tâm, độ tất cả chúng sanh là mãn nguyện. Sau đó, Mẫu thân của Ông nằm mộng thấy tinh tú sa vào bụng mình rồi thọ thai, đến ngày mùng 8 tháng 4 là Ngày Phật đản thì sanh ra Thiền Sư. Lúc còn trẻ dù chưa từng được học Phật pháp mà đã thể ngộ nhân sanh vô thường, cảnh đời ô trược, nội tâm không có một niệm cho đời là vui. Đến niên hiệu Trinh Quán, nhà Đường, Thiền sư xuất gia. Lòng thành của Ngài cảm đến hai vị Bồ tát từ Thiên cung giáng xuống trần đích thân truyền trao giới cụ túc cho Thiền sư. Thiền Sư sau đó đã cật lực đại hoằng chánh pháp Như Lai khắp nơi, làm lợi ích cho vô số nhơn thiên, đúng như nguyện của Phụ thân Ngài đã cầu xin. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 2).
25. Triều nhà Đường, Vạn Hồi Thiền sư họ Trương là người ở Nam Hưng, tỉnh Hà Nam. Trước khi sanh ra Thiền Sư, mẹ Ông thường thành kính đối trước tượng Quán Âm Đại Sĩ xin cầu một đứa con, sau đó sanh ra Ông nhưng đến lúc tám, chín tuổi thì mới biết nói bập bẹ. Khi đến tuổi trưởng thành, cha Ông bảo đi cày ruộng thì Ông vâng lời vác cày dắt trâu ra đồng, cày hết mẫu này qua mẫu nọ, đến mấy mươi dặm vẫn không ngừng, chỉ đến lúc gặp dòng suối thì mới dừng lại. Theo lệ thường của nhà nông, khi cày ruộng thì người ta thường hô “dí – thả” nhưng Thiền sư thì lại luôn miệng kêu “bình đẳng, bình đẳng”. Phụ thân Ông biết chuyện nổi giận đánh cho một trận đòn. Sau khi bị đòn xong, Thiền Sư đứng dậy khoanh tay lại thưa: “Thưa Phụ thân, cha không hiểu nên đánh con. Đại phàm khi cày ruộng thì tất cả đều cày, làm gì còn phân biệt kia đây.” Anh của Thiền Sư đi lính ở Tây An, mấy năm trường mà không có tin tức nên cha mẹ Ông ngày đêm lo lắng buồn rầu, luôn nghĩ rằng con mình đã chết. Thiền Sư thấy vậy bèn đến bên Cha mẹ thưa rằng: “Cha mẹ vì thương nhớ anh con mà ngày đêm thương khóc sầu thảm cũng chẳng có ích gì, nay con xin cha mẹ sắm ít đồ y phục, lương thực và những đồ dùng cho anh con, con sẽ thay cha mẹ mang đồ đến thăm Anh con.” Khi đã chuẩn bị đồ xong, vào một ngày nọ, Thiền Sư thức dậy vào sáng sớm, không ăn uống gì, đến trước mặt song thân kính cẩn lễ bái từ tạ rồi lên đường nhưng đến chiều đã thấy Thiền Sư trở về nhà. Ông bước vào nhà gặp cha mẹ thì thưa rằng: “Hiện nay Anh con vẫn bình yên vô sự, Anh con gởi thư thăm hỏi cha mẹ đây”. Phụ thân Ông lúc đầu nhìn thấy Thiền sư trở về trong ngày thì cho rằng Ông nói dối nhưng khi mở thư ra xem thì quả thật là bút tích của người Anh. Ai ai trong nhà cũng kinh ngạc vì đường đến Tây An phải trải qua trên vạn dặm, vậy mà Ông chỉ đi có một ngày đường. Vì tích chuyện này mà người ta gọi Ông là Vạn Hồi Thiền Sư. Trước kia, Huyền Trang Pháp sư trên đường đến Phật quốc thỉnh kinh có nhìn thấy trên cây cột trước nơi thờ Phật để dòng chữ “Bồ Tát Vạn Hồi sẽ đến Văn Hương để giáo hóa chúng sanh.” Khi trở về bổn quốc, Pháp sư liền đến Văn Hương hỏi thăm Vạn Hồi cho kỳ được. Khi được gặp Pháp sư, Ngài liền thành tâm đảnh lễ và đem ba cái y cùng bình bát cúng dường nhưng Vạn Hồi Thiền Sư từ tạ không nhận và bỏ ra đi. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 3).
26. Triều nhà Tống, Địch Tập là người Kinh sư ở trấn Tư An, huyện Hồ Châu tỉnh Chiết Giang. Dù đã 50 tuổi nhưng Ông vẫn không có con. Ông bèn phát nguyện rước người đến họa Thánh Tượng Quán Âm Đại sĩ thờ cúng trong nhà, ngày ngày xưng niệm lễ bái, cầu đảo rất chí thành. Vợ của Ông trước khi có mang thì nằm mộng thấy có một phụ nữ trong trang phục bạch y, tay cầm cái giỏ có một bé trai tuấn tú bên trong đến trao cho mình, chưa kịp đưa tay đỡ lấy đứa bé ấy thì bỗng đâu có một con trâu đến đứng chận ngang ở giữa nên không thể bế đứa bé được. Đến đúng ngày tháng thì hạ sanh được một đứa bé trai, nhưng sau khi ra đời chỉ sống được mười một tháng tuổi thì bị bệnh nặng rồi qua đời. Địch Tập lại chí thành khẩn thiết cầu nguyện. Lúc ấy có một người trong xóm, nghe chuyện giấc mộng của vợ Ông bèn nói với Ông rằng: “Chắc là do nhà Ông ưa ăn thịt trâu nên mới có giấc mộng ứng hiện như vậy”. Nghe xong, Ông chợt giật mình tỉnh ngộ, liền phát thệ cả nhà chẳng những không ăn thịt trâu nữa mà trường trai luôn. Sau đó, vợ Ông lại nằm mộng thấy người đàn bà trước kia đến trao cho một đứa bé nữa và liền thọ thai, đúng ngày tháng, sanh ra một bé trai hình dung đoan chánh, mặt mày sáng sủa, đến khi trưởng thành thì học hành thông minh, thi đậu cao rồi ra làm quan nội triều rất tôn quý. (Trích Quán Tự Lục và Quán Âm Từ Lâm tập).
27. Hoa Đình Trung tự thuật: Người em chú bác của Ông là Đôn Tam kết hôn đã mười năm mà người vợ vẫn chưa sanh. Em dâu là Quả Thị thường đối trước tượng Bồ Tát Quán Âm chí thành lễ niệm cầu đảo. Lúc cầu đảo thì nước mắt tuôn rơi, tiếng nguyện cầu lẫn với tiếng khóc than, ai nghe cũng phải động lòng. Một đêm nọ, Quả Thị nằm mộng thấy Đại Sĩ bồng hai đứa bé đến bảo: “Thương cho lòng chí thành của con nên ta đem hai đứa trẻ này giao phó cho con.” Tỉnh dậy thì qua năm sau bà có thai, năm đầu tiên thì sanh ra được một trai, năm sau đó lại sanh được môt gái, rồi dứt hẳn không còn sanh được nữa. (Trích Hải Nam Nhứt chước).
28. Triều nhà Tống có Phật tử tên là Trương Khánh ở Biện Kinh. Trong niên hiệu Tương Phù thì Ông làm quan giám ngục. Khi làm việc, Ông thường đối xử với tù nhân bằng tâm từ bi của một Phật tử, dù là quan giám ngục nhưng không bao giờ hách dịch, ngày ngày cũng lau chùi, quét tước dọn dẹp và nhắc nhở người dọn dẹp những nơi ô uế. Vào mùa nắng, Ông hết lòng săn sóc phạm nhân cho nước uống, thuốc men, đồ dùng… Ông cũng thường nhắc nhở thuộc cấp của mình phải có lòng từ tâm với tội nhân. Hàng ngày Trương Khánh đều tụng Kinh Pháp hoa, lúc trong ngục có tử tội thì tự mình phát nguyện ăn chay, tụng Kinh một tháng để cầu nguyện cho người ấy. Ông răn dạy tội nhân phải biết nhận lổi, không nên vu cáo cho người lương thiện vì ác nghiệp ấy tự mình phải mang, tương lai không thoát khỏi quả khổ. Vợ của Ông là Viên Thị đã bốn mươi tám tuổi nhưng không có con. Một ngày nọ mắc phải ôn dịch nên qua đời, nhưng ba ngày sau khi chết thì bỗng nhiên Bà sống lại kể rằng: “Lúc tôi vừa mới chết thì bị dẩn đến một chổ rất tăm tối, ngay lúc ấy Tôi nhìn thấy Bạch y Đại Sĩ đến bảo: “Chồng của ngươi âm đức rất lớn nên con cháu sẽ hưng thịnh vinh hiển mà hiện nay ngươi vẫn chưa có con kế tự.“ Nói dứt lời thì Bồ Tát dẫn Tôi đi ra, do đó mà sống lại được”. Sau khi sống lại thì năm sau đó Viên Thị có thai rồi sanh ra được một đứa con trai hình dung đoan chánh, mặt mày sáng sủa, học hành thông minh, sau thi đậu ra làm quan nội triều. Phật tử Trương Khánh sống đến tám mươi hai tuổi thì thệ thế. Trước ngày mất, Ông không tật bệnh gì, an nhiên niệm Phật mà ra đi. Sáu đứa cháu nội của Ông đều đổ đạt, có quyền tước hiển vinh. (Trích Quán Âm Trì Nghiệm Ký).
29. Triều nhà Tống, Từ Hy Tải là người ở Lạc Bình, tỉnh Giang Tây. Vợ chồng chỉ có một đứa con. Vào niên hiệu Thuấn Hy, ngày 24 tháng 8 Năm Giáp Ngọ thì đứa trẻ bị bệnh chết. Vợ chồng Ông ngày đêm buồn khóc đau thương gần như muốn chết theo con. Qua năm sau, Từ Hy Tải có việc phải đi đến tỉnh An Huy. Ngày đi trùng vào ngày giỗ con nên trên đường đi, Ông ghé đến chùa Nam Đài bái thỉnh chư Tăng làm lễ cầu siêu. Trưởng lão trong chùa ấy nhìn thấy Từ Hy Tải trong khi lạy Phật cầu nguyện cho con thì tỏ vẻ buồn thảm vô biên, biết được Hy Tải buồn thảm vì không có con kế tự nên nói với Hy Tải: “Hiện Tôi có một Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát rất linh hiển muốn tặng cho đạo hữu đem về nhà thờ cúng, hàng ngày lễ bái cúng dường. Nếu có thể thành tâm khắc bản, in ấn Kinh Phổ Môn thì chắc chắn sẽ được phước báo tốt đẹp.“ Nghe xong, Ông thành kính đảnh lễ Hòa thượng rồi thỉnh Thánh tượng Quán Âm về nhà thờ. Ngày ngày đều chiêm bái xưng niệm và theo lời Trưởng lão dạy, xuất tiền ấn tống Kinh điển. Quả nhiên năm sau thì vợ Ông có thai và đến ngày 24 tháng 8 nhằm ngày đứa con mất, vợ Ông lại hạ sanh một nam nhi, năm sau đó lại tiếp tục sanh thêm được hai đứa con trai nữa. Từ ấy Từ Hy Tải càng thâm tính Phật pháp, hàng ngày đều lễ bái cúng dường Đại Sĩ, tụng Kinh niệm Phât rất chuyên cần. (Trích Hải Nam Nhứt Chước).
30. Minh Thiện là một cự phú nhưng không có con nên Ông bèn đối trước tượng Quán Âm Đại Sĩ nhất tâm thành kính lễ bái cầu đảo xin Bồ tát từ bi gia hộ cho có con kế tự. Thê thiếp của Ông sau đó sanh liên tiếp mấy đứa con trai, nên Ông thuê vài người về làm vú săn sóc cho các đứa bé. Một trong số những người vú này khi đến làm, nhìn thấy Minh Thiện thì tỏ vẻ lả lơi cười cợt. Ông giả vờ không thấy tránh mặt đi chổ khác, sau đó Ông viện cớ cho người này nghỉ việc và ra khỏi nhà Ông để giữ gìn danh tiết. Về sau con của Ông khi lớn lên đều nối dòng tổ tông trở thành cự phú trong vùng, họ đều theo gương cha phát tín tâm, tính kính Phật pháp, ngày ngày đều lễ bái Quán Âm Đại Sĩ và tụng kinh niệm Phật. (Trích Hải Nam Nhứt Chước).
31. Triều nhà Nguyên, Vương Ngọc ở phường Đại Ninh, Nam Kinh đã trên 40 tuổi nhưng vẫn chưa có con. Vào niên hiệu Chí Nguyên năm thứ hai, nhằm năm Ất Sửu, Vương Ngọc đến nhà người bạn là Mã Công Chước, thấy ở trước bàn thờ Thần có một quyển Kinh Phổ Môn nên Ngọc xin thỉnh mang về, phát nguyện hàng ngày thành kính chuyên tâm trì niệm không giải đải. Vào đêm 14 tháng 4 năm Đinh Mão thì nhạc mẫu của Vương Ngọc là Lưu Thị mộng thấy có một người đàn bà mặc bạch y, đầu đội kim quan, dắt theo một đồng tử đến nhà bảo rằng: “Ta đưa Thánh Nô này đến cho ngươi”. Nhạc mẫu Vương Ngọc vui mừng tiếp nhận đứa bé thì lúc ấy chợt tỉnh giấc. Sáng ngày hôm sau thì vợ của Vương Ngọc là Trương Thị cho biết có mang, sau đó sanh ra một đứa bé trai hình dung đẹp đẽ, quả nhiên ứng hợp với giấc mộng tối hôm nào, nên liền đặt tên đứa bé là Thánh Nô, vợ chồng Ông sau đó phát nguyện ấn tống năm trăm quyển Kinh Phổ Môn để báo đáp thâm ân của Đại Sĩ đã ban cho đứa con. (Trích Bạch Y Kinh Ký Nghiệm).
32. Nguyên Niệm Thường Thiền Sư, hiệu là Hải Ốc, là người họ Huỳnh ở tại Hòa Đình, tỉnh Giang Tô. Mẫu thân của Thiền Sư là Dương Thị trước đây đã từng đối trước tượng Quán Âm Đại Sĩ chí thành lễ bái cầu xin có con kế tự. Sau khi cầu đảo thì Dương Thị mộng thấy Bàn My Lão tăng đến xin nghỉ trọ. Sau đó thì Bà có thai. Ngày sanh ra Thiền Sư, ánh sáng chiếu khắp trong nhà, hương thơm ngào ngạt. Sau này Thiền Sư xuất gia tại Viên Minh Viện ở Bình Giang, tu hành rất tinh tấn, giới Luật tinh nghiêm, bác thông kinh điển, kế thừa Pháp hối của Cơ Hy Hòa Thượng, trước tác Bộ Phật Tổ Thông Tải hai mươi quyển để lại lưu hành trong đời. (Trích Thích Thị Khế Cổ Lược).
33. Cuối triều nhà Nguyên, Bảo Kim Thiền Sư hiệu là Bích Phong, họ Thập người Vĩnh Thọ, tỉnh Thiểm Tây. Phụ thân của Ông là Xứng Trưởng giả, mẫu thân là Trương Thị. Cả hai ông bà đều là người chuyên tu thiện hạnh không biết mệt mỏi chán nhàm. Một hôm có một vị Tăng đi khất thực, khi đi ngang nhà Ông Bà thì đem Thánh Tượng Quán Âm Đại Sĩ trao cho Trương Thị và dặn dò nên thờ cúng Đại Sĩ kính cẩn sẽ sanh được một nam tử thông minh trí huệ. Quả nhiên, không bao lâu sau thì Bà có thai rồi hạ sanh Thiền Sư, giờ phút sắp sanh thì bạch quang chiếu khắp cả nhà. (Trích Thích Thị Khế Cổ Lược).
34. Triều nhà Minh có Quan Hình Bộ Lý Thành, tự Tâm Thúy là người Quảng Lăng, chỉ có một đứa con nhưng đứa trẻ lại bị bệnh đậu mà chết. Mẫu thân của Lý Thành là người Cường An, ngày đêm buồn rầu nhớ cháu không lúc nào nguôi bèn phát nguyện hằng ngày tụng kinh Phổ Môn để xin cầu tự cho con mình. Không lâu sau đó thì Lý Thành nằm mộng thấy một người phụ nữ bồng đứa trẻ vào nhà, trên mặt có dính một mài ghẻ đậu, nhìn có vẻ sắp lành nhưng chưa rụng. Sáng ngày khi thức dậy thì lại gặp một người lạ tặng cho bức tranh có thêu hình Quán Âm bồng đứa trẻ giống hệt như trong giấc mộng. Phu nhân của ông sau đó thọ thai và sanh ra một đứa con trai. (Trích Quán Âm Trì niệm ký).
35. Triều nhà Minh, Nghiêm Thượng Bảo Thuận tự Đạo Triệt ở huyện Thường Thục là con của Văn Tình Công Trọng, là một đại quan nhà Minh. Năm ba mươi tuổi Ông vẫn chưa có con nên cưới thêm một người thiếp nhưng không quan tâm đến hình sắc bên ngoài, thế nhân thấy vậy nên có ý chê cười. Một dạo sau đó khi Ông sang nhà vợ thấy có một người hầu tuổi đã cập kê nhưng chưa để tóc vì bị câm, người nhà cho biết Cô là phế nhân nên không ai quan tâm. Bảo Thuận nghe xong bùi ngùi mà nói rằng: “Không hề chi. Bảo nó cứ để tóc, Tôi đây sẽ cưới về làm thiếp vậy”. Nhà bên vợ Ông không ai tin lời nên Ông bèn tỏ lời hẹn ước với người hầu. Đến thời hạn hơn một năm sau thì đến cưới người hầu đó. Phụ thân của Bảo Thuận nghe tin ấy thì vui mừng nói: “Việc làm của con ta rất hợp với đạo trời, chắc chắn con ta sẽ có con kế hậu”. Sau đó cả hai người thiếp của Ông đều sanh con trai. Bảo Thuận vốn là môt Phật tử thuần thành, hằng ngày trì tụng Bạch Y Thần Chú, lại nghiêm trì giới cấm sát sanh, lúc sắp sanh con trai thì đều có mộng triệu Bạch Y tống tử. (Trích Cảm Ứng Thiên Tăng Chú).
36. Triệu Thế Thân là người ở huyện Tiên Đường, vợ chánh là Châu Thị, không có con nên thường đến Điện Quán Âm chí thành lễ bái cầu đảo, lại phát nguyện trì tụng Bạch Y Thần Chú, ấn tống Kinh Bạch Y Đại Sĩ mười hai ngàn quyển, thực hành tất cả thiện sự. Sau đó, vợ Ông sanh được hai đứa con trai. Con trưởng đậu đến Tiến Sĩ. Châu Thị hưởng thọ đến chín mươi tám tuổi. Cả nhà sống trong cảnh ngũ đại đồng đường rất an vui. (Trích Hải Nam Nhứt Chước).
37. Triều nhà Thanh, Huỳnh Phán Sanh ở Tân Ấp, tỉnh Quảng Châu là một nhà giàu có, tuy đã năm mươi tuổi mà trong nhà vẫn vắng vẻ, không có con kế tự. Năm Mậu Tý, ông phát tâm Quy Y Tam Bảo, thọ trì Ngũ giới, lại nguyện trường trai không dùng đồ huyết nhục. Trong nhà, Ông thờ Quán Âm Đại Sĩ rất thành kính, hàng ngày hai thời mai chiều dù có bận việc cách nào thì cũng gác lại một bên, đến bàn thờ làm lễ đảnh lễ Đại Sĩ hai trăm lạy và chuyên tâm xưng niệm Thánh hiệu Đại Sĩ, suốt trọn một năm không thiếu một ngày. Chưa đến ba năm thì thê thiếp liên tiếp trong một ngày sanh được mấy đứa con trai thông minh trí huệ, sau này các con Ông đều đổ đạt ra làm quan, mang vinh hiển về cho gia tộc, ứng như trong Kinh Phổ Môn dạy “Nhược hữu nữ nhơn thiết dục cầu nam, lễ bái cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện sanh phước đức trí huệ chi nam”, chính là họ Huỳnh trong truyện này vậy. (Trích Quán Âm Từ Lâm Tập).
38. Đời nhà Thanh, Đàm Hiếu Khanh tự Phù Phong ở huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô, nhà rất giàu nhưng không có con, vì thế họ hàng xúm nhau bàn tán, sau khi Khanh qua đời sẽ cùng nhau chia tài sản. Hiếu Khanh nghe nói bèn cười và lập thệ rằng: “Ta thà đem tài sản này phân phát cho người nghèo chứ quyết định không để cho đám người họ hàng này tranh giành phân chia.” Sau đó, Ông nguyện đem năm ngàn lượng vàng để kiến lập Đại bi Sám đàn nên đến Nguyên Mô tìm chổ đất tốt. Thấy phía sau Phạm Thiên Cát, đất đai cao ráo bằng phẳng, phía trước có hồ rộng thênh thang, phong cảnh tuyệt đẹp liền đem nguyện vọng của mình tỏ bày với Phạm Thạch Lão Nhơn thì được lão nhơn đồng ý. Khi đắp nền, Ông dùng gỗ trầm hương nghiền thành bột làm hồ xoa trên nền Sám đàn hết sức trang nghiêm. Khi Sám Đàn hoàn thành xong, Ông thành kính cung thỉnh các bậc Cao Tăng đến nhập đàn làm lễ. Trong thời gian bốn mươi chín ngày, Ông đều theo quí chư Tăng lễ sám. Sau khi hoàn tất thì trong năm ấy, người thiếp của Ông sanh một con trai, bàu hy (lá nhau) đều trắng nguyên phôi. Chánh Thị là vợ chánh của Ông chưa từng sanh nở cũng phát tâm xuất ra một ngàn lượng vàng, kiến tạo Điện Bạch y Đại Sĩ ở Nguyên Mô, nguyện đem công đức này cầu con thì không bao lâu cũng có thai sanh ra được một nam tử, giống con của người kế thất, bàu y đều trắng. (Trích Hiện quả Tùy Lục).
39. Triều nhà Thanh, Hà Long Tướng là một tướng quân ở tỉnh Quảng Châu, tuổi đã 50 tuổi nhưng không có con.Trong tâm Ông thường buồn phiền vì sợ cái cảnh tuyệt hậu. Vào năm Ất Mùi, Ông đến chùa Quy Y Tam bảo, thọ trì Ngũ Giới và nguyện ăn chay một tháng sáu ngày, Ông lại xây một Tịnh thất trang nghiêm thờ cúng Thánh tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán Thế Âm, sớm chiều lễ bái xưng niệm rất chí thành. Trải qua vài tháng thì Ông mộng thấy Đại Sĩ chính tay trao cho Ông một đứa trẻ, mặc y phục màu hồng, năm sau quả nhiên vợ Ông sanh ra một nam tử, hai năm sau Bà liên tiếp sanh hai đứa con nữa. Từ đấy Ông càng thâm tín Tam Bảo, lễ niệm Đại Sĩ và tụng kinh niệm Phật rất tinh tấn. (Trích Quán Âm Từ Lâm Tập).
40. Triều nhà Thanh, Dương Hoàng tự Hy Châu là người ở huyện Dương Đồ. Vào niên hiệu Thuận Trị nhà Thanh năm Bính Tuất, ở địa phương nổi loạn, binh sĩ kéo đến đâu thì nhiễu hại dân chúng đến đó. Dương Hoàng đem thê thiếp cùng với đứa con mười tuổi dấu trong rừng nhưng đứa trẻ không chịu theo mẹ, chỉ khóc la đòi theo cha. Sau khi đem vợ con đi trốn, Dương Hoàng trở lại nhà để gìn giữ mộ phần của Ông cha thì binh sĩ kéo đến. Thấy trong mộ phần có người mặc y phục, áo mão chỉnh tề thì định bắt đem đi. Trong lúc nguy cấp ấy, Ông bèn nhảy xuống sông tự tử. Đứa con đứng trên bờ thấy cha nhảy xuống sông chết thì cũng kêu khóc rồi nhảy xuống sông theo Cha. Sự việc này diễn ra vào ngày 16 tháng 3 năm Bính Tuất. Sau khi yên nạn giặc, vợ Dương Hoàng là Lục Thị trở về nhà, nghe được tin chồng con đều đã chết thì đau đớn buồn rầu bỏ ăn bỏ ngủ, thương chồng không có con để nối dòng. Lục Thị phát nguyện trường trai thỉnh Phật về thờ, ngày đêm chí thành lễ lạy, tiếng niệm Phật cùng với tiếng khóc than cảm động lòng người. Một đêm, Lục Thị nằm mộng thấy một bà già dắt một đứa con trai đến nhà nói: “Ta cho ngươi đứa trẻ này”. Lúc tỉnh giấc, Lục Thị vui mừng nói rằng: “Nam mô A Di Đà Phật. Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Nguyện Phật và Bồ Tát từ bi gia hộ cho thai nhi trong bụng của người thiếp Trương Thị sẽ là đứa con trai mà Bồ tát đã trao cho con trong giấc mộng.” Đến cuối năm thì người thiếp sanh ra một đứa con gái. Lục Thị buồn đau khóc lóc mà than rằng: “Ôi thôi! Tuyệt hậu rồi!” Vào mùa Xuân năm Đinh Hợi, Lục Thị triệu tập tất cả người trong họ đến nhà rồi thưa với người trưởng tộc rằng: “Chồng tôi không con trai nối dõi nên hiện tại trong gia đình có mấy mẫu ruộng đất xin chia cho các cháu, Tôi chỉ xin giữ lại phần ít để nuôi dưỡng đứa bé gái nầy thôi”. Nói dứt lời thì hai dòng lệ tuôn rơi, khóc lóc thảm thiết. Người trưởng tộc nhìn thấy cảnh ấy không cam lòng bèn nói: “Việc chia đất không cấp thiết, đợi đến khi Thím thỉnh quý chư Tăng về nhà lo Phật sự, làm lễ cầu siêu cho Chú nó xong thì sẽ bàn luận đến chuyện phân chia tài sản sau.” Sau đó, cả gia tộc đều tụ họp để làm lễ cầu siêu ba ngày ba đêm, đến đêm cuối cùng, vào ngày 16 tháng 3 thì đứa bé gái khóc mãi không thôi, người mẹ là Trương Thị bồng nó đến giường, vừa đặt lưng xuống thì bỗng cảm thấy như mộng mị bị quỉ đè, mê mang bất tỉnh, Lục Thị đến gọi Trương Thị dậy thì lạ lùng thay, Bà thấy bé gái trong tay bỗng dưng không phải là bé gái nữa. Lục Thị kinh hoàng gọi mọi người đến xem cho tường tận thì thấy bé gái mặt mũi vẫn còn nguyên, chỉ nơi bộ phận sinh dục thì đã chuyển thành tướng nam căn, bên cạnh vẫn còn dấu máu chảy. Mọi người thấy thế đều kinh ngạc, nhớ đến giấc mộng Lục Thị đã kể về chuyện Bồ Tát dắt đứa bé trai đến trao trong mộng trước đây, thì mọi người bây giờ mới hiểu là Quán Âm Bồ Tát Đại từ Đại bi linh cảm chẳng sai. Tất cả bèn đến quỳ trước Phật đài, lễ bái tạ ơn, đặt tên lại cho đứa bé là Phật Tử nghĩa là đứa con Phật ban cho. Ngày hôm sau mọi người xa gần nghe tin, kéo nhau đến xem. Quan huyện sở tại là Trương Công nghe qua việc này bán tính bán nghi sai người đưa bé gái đến huyện đường để tra hỏi. Tuy chính mắt nhìn thấy nhưng quan huyện vẫn hoài nghi nên gạn hỏi người nhà bé gái thì tất cả người trong gia tộc của Dương Hoàng đều trả lời đã chính mắt chứng kiến việc chuyển nữ thành nam mà không hiểu được vì sao. Chuyện như mộng huyễn này thật đúng là chỉ có Phật lực bất tư nghị mới thành sự thật như thế. Người người đều vui mừng cho Dương Hoàng giờ đã có con nối dõi. (Trích Đường Nghi Chi Kỷ Cầu Thơ).
41. Phó Quốc Trần, huyện Tân Kiên, tỉnh Giang Tây là người không có con. Chú của Ông là Quảng Ngưu thì lại có nhiều con trai. Một ngày nọ Ông đến nhà của Chú thì được Chú khuyên rằng: “Ta nhờ nhiều năm tụng kinh Phổ Môn nên sanh được nhiều con trai, sao con không bắt chước Ta mà làm theo.” Quốc Trần vâng lời, từ ấy phát nguyện hàng ngày chí thành trì tụng Kinh Phổ Môn. Qua năm sau, thì sanh được một đứa con trai. Ông liền phát nguyện in kinh Phổ Môn hơn hai ngàn quyển. Năm sau đó lại sanh được một con trai nữa. Hai con trai Ông khi lớn lên đều đổ đạt làm quan vinh hiển. Cả hai tuy ở địa vị quyền quý, vẫn noi theo gương Cha, tín phụng Phật pháp, hàng ngày tụng kinh Phổ Môn, bái sám niệm Phật rất tinh cần. (Trích Hải Nam Nhứt Chước).
42. Dư Lâu Văn là người ở Vụ Nguyên, tỉnh An Huy. Vợ chánh của Ông là Đãi Thị vì không có con nên phát nguyện trì tụng Kinh Phổ Môn và ấn tống ba ngàn quyển Kinh Phổ Môn. Đến niên hiệu Khang Hy nhà Thanh, năm đầu thì sanh con trai, năm sau lại sanh hai đứa con trai nữa. Từ đó, ngày ngày Bà trì tụng Kinh rất tinh tấn, lại siêng năng thực hành thiện sự, giúp người lợi vật. Hơn hai mươi năm sau thì con cháu rất đông đúc, đứa nào cũng hiếu thuận, noi theo gương của Đãi Thị, đọc tụng Kinh Phổ Môn, kính trọng Tăng lữ, ăn chay niệm Phật rất thuần thành. (Trích Quán Âm Linh cảm lục).
43. Triều nhà Thanh, Lương Nguyên Truân là người ở xứ Hoài An. Nguyên Truân vốn là Phật tử thâm tín Tam bảo, tuy vậy đã đến tuổi trung niên mà Ông vẫn chưa có con kế tự, lại có nhiều tật bệnh. Vì thế, Ông phát nguyện trường trai, ngày ngày tụng Kinh Phổ Môn và Chú Đại Bi. Vợ chánh của Ông là Nguyễn Thị cũng theo Ông trường trai và chuyên trì chú Chuẩn Đề, sáng sáng chí thành Lễ Phật và thường quỳ gối phúng tụng. Không bao lâu thì các tật bệnh của Nguyên Truân đều hết, Nguyễn Thị cũng liên tiếp sanh được ba đứa con trai. (Trích Quán Âm Trì Nghiệm ký).
44. Triều nhà Thanh, Phùng Cẩm là một người trong dòng vọng tộc cao môn xứ Đông Hương. Tổ tiên Ông nhiều đời vun trồng phước đức nhưng vẫn ở trong cảnh thanh bần. Đến đời của Phùng Cẩm thì Ông mới hiển đạt làm quan ngũ phẩm tại Sơn Tây, nhưng sau đó Ông cáo bệnh về quê. Dù tuổi đã lớn, nhưng vẫn chưa có con. Vợ của Ông là Khổng Thị phát nguyện trì Chú Đại Bi rất chí thành thì có thai. Khi vừa mới thụ thai thì có người hàng xóm là Đào Thị nằm mộng thấy có một bà lão tay bồng hai đứa trẻ – một mập, một ốm đến trao và nói: “Tùy ý ngươi muốn nhận đứa nào thì cứ bồng lấy.” Đào Thị đưa tay ra bế lấy đứa mập thì bị sẩy tay, đứa nhỏ rớt xuống đất chết, nên Đào Thị lại quay sang bế tiếp đứa ốm thì bà lão bèn nói: “Đứa nhỏ này sẽ đưa đến cho nhà họ Phùng, ngươi đâu có được bồng.” Sau đó quả nhiên Đào Thị sanh được một đứa bé trai mập mạp nhưng không nuôi được, còn Khổng Thị có thai đến tháng thứ bảy thì sanh được một đứa con ốm yếu đặt tên là Phùng Hạo. Đứa trẻ dần lớn lên khỏe mạnh, khôi ngô tuấn tú, học hành đỗ đạt cao, trước được bổ nhiệm làm quan ở Hàn Lâm, sau lên đến chức Ngự Sử. Chỉ sau thời gian ngắn làm quan thì Hạo cũng xin từ quan về quê, Phùng Hạo là người thâm tín Phật pháp, nên ngày ngày tụng kinh niệm Phật rất tinh tấn, lại ưa thích làm thiện sự. Nếu người trong xóm làng, có ai thiếu thốn hay bị tai nạn, Ông đều vui vẻ giúp đỡ. Vợ chồng Phùng Hạo đều hưởng trường thọ, thân thể khỏe mạnh, tinh thần tráng kiện, họ có ba đứa con trai đều đổ đạt cao và ra làm quan Nội triều. (Trích Khuyến giới loại sao).
45. Đầm Dụng Hàn ở Hoành Dương tỉnh Hồ Nam. Lúc còn trẻ có nhiều tật bệnh nên Ông phát nguyện trì niệm danh hiệu của Quán Âm Bồ Tát để tiêu trừ nghiệp chướng, lại phát nguyện biên tập Quán Âm Kinh Chú và quyển Cứu Cấp Thần Phương là những cách ngôn răn dạy cho đời, đồng thời khuyến khích những người cùng chí hướng lập thành một Hội chuyên làm thiện sự và ấn tống các Kinh sách nói trên để phân phát khắp mọi nơi. Những người trong Hội tùy theo sở nguyện, mỗi người đều có một mong cầu, có người cầu có con, có người cầu công danh, tiền bạc hoặc công danh, có người cầu nguyện cho tiêu trừ tật bệnh, khỏi các tai họa, … tất cả đều nương nhờ nơi thần lực của Bồ tát gia hộ mà được mãn nguyện, những người bị khổ não đều được giải thoát. Bấy giờ ở gần đó có một người tên là Phùng Thiện Ích đã sáu mươi tuổi nhưng vẫn không có con. Thấy người trong Hội thành tâm lễ niệm Quán Âm Bồ Tát và siêng làm việc lành nên đều được mãn nguyện của mình nên Ông phát nguyện trường trai, niệm Phật tụng Kinh và ấn tống Kinh Phổ Môn. Không bao lâu thì vợ Ông có điềm ứng mộng nên báo cho Ông hay. Ông vừa nghe đã quở trách: “Bà đừng nói bậy, già đầu bạc rồi mà làm sao còn có con, chẳng qua là do Bà mơ tưởng quá nên đó có thể là huyễn mộng mà thôi”. Nhưng sau đó thì quả nhiên bà có thai và đến mùa Xuân năm sau thì sanh được một đứa con trai ứng hợp với giấc mộng. (Trích Quán Âm Linh Cảm Lục).
46. Thẩm Tượng Hiền ở xứ Kiên Lăng là người có chí, siêng vun trồng phước đức nhưng tuổi đã năm mươi mà chưa có một đứa con. Trong nhà từ trước đến giờ có thờ Quán Âm Bồ Tát rất thành kính, hàng ngày Ông đều lễ lạy, niệm Phật tụng Kinh không hề giải đải. Một ngày nọ Ông nằm mộng thấy có một bà lão mặc bạch y đến bảo rằng: “Nếu ngươi có thể khuyến hóa được nghìn người đừng say đắm nữ sắc thì âm đức vô cùng vô tận”. Tượng Hiền nghe nói xong thì liền thưa rằng con không thể làm nổi việc này. Bà lão liền bảo: “Ta có quyển sách về những bài ca và họa đồ khuyên răn hàng nam tử đừng say đắm nữ sắc, nếu ngươi có thể in ấn và bố thí cho người thì có thể khuyên được vô lượng vô số người, đâu chỉ có số nghìn người mà thôi”. Nói dứt lời, bà lão từ trong tay áo lấy ra quyển sách trao cho Tượng Hiền. Tượng Hiền cung kính nhận lấy mở ra xem, khi ngẩng lên thì không thấy bà lão ở đâu nữa. Lúc tỉnh giấc trên tay Ông vẫn còn quyển sách, chừng ấy mới biết là Quán Âm Đại Sĩ thị hiện. Tượng Hiền liền xuất tiền của ấn thí nghìn quyển sách này. Không lâu sau thì vợ Ông sanh được hai con trai, đến tuổi trưởng thành đều thi đậu cao rồi ra làm quan vinh hiển. Tượng Hiền hưởng thọ đến chín mươi ba tuổi, trước khi mất thì Ông không bệnh tật, an nhiên niệm Phật mà thường thệ, khắp nhà mùi hương thơm bay ngào ngạt. Quyển sách này được Phật học thư ở Thượng Hải tái ấn hành. (Trích Chủng Anh Lục, Phật Học Thư Cục).
47. Triều nhà Tống đời vua Thái Tổ, niên hiệu Khai Bảo, năm thứ năm. Giữa lúc mùa Hạ, trời bỗng đổ mưa như trút nước cả ngày đêm, nước sông trong phút chốc dâng lên, tràn ngập hư hoại hết hoa màu, nhà cửa của dân chúng đều bị nước cuốn trôi. Vua Thái Tổ nghe thấy tình cảnh như vậy thì trong lòng buồn rầu vô hạn, liền đốc thúc các quan đại thần cùng với dân chúng đi khắp nơi cầu đảo thiên địa quỷ thần. Trải qua mấy ngày cầu nguyện mà mưa càng ngày càng lớn. Lúc ấy có một vị Đại thần đến trước vua Thái Tổ tâu rằng: “Quán Âm Đại Sĩ từ trước đến giờ là bậc Bồ tát đại từ đại bi, ban phước cứu khổ cho muôn loài, Thánh thượng nên quy hướng về Quán Âm Bồ Tát, đừng nên cầu đảo thiên địa quỷ thần, chẳng những không có kết quả mà lụt càng lớn, dân chúng ngày càng khổ sở”. Nói xong, vị Đại thần này bèn kể lại các sự linh nghiệm của Quán Âm Bồ Tát ở Thượng Thiên Trúc. Vua Thái Tổ nghe xong bèn sai người sắm sửa hương hoa lễ vật rồi cử Sứ giả cùng với vị Đại thần này đến chùa cầu đảo. Trong vòng hai ngày thì trời quang đãng dứt hết mưa, nước sông hạ xuống, từ nội cung đến thành thị thôn quê, dân chúng đâu đâu cũng vui mừng khôn xiết. Từ đó về sau, mỗi lần có đại nạn, lụt lội, hạn hán, bệnh dịch, … vua Thái Tổ đều ân cần hạ lệnh cho dân chúng tắm gội, trai giới thanh tịnh và chí thành lễ niệm cầu đảo Đại Sĩ. (Trích Thiên Trúc Chí).
48. Vào Triều nhà Tống, Bào Khâm Chi ở Xử Châu, khi đến thay thế cho quan Thái Thú Trần Hiển có soạn Linh Cảm Quán Âm bia. Văn bia viết như sau: Niên hiệu Triệu Khánh, nhà Tống, năm thứ hai, Hiển này từ Hiệp Vỹ đổi đến Tiền đường làm quan Thái Thú tại đây. Đến năm sau, Hiển này có dâng biểu lên triều đình tâu rằng phía Tây Xử Châu, nơi Hạ thần đang cai quản là Hồ Sơn, là nơi có thắng cảnh đẹp nhất trong thiên hạ, trong đó có núi Thiên Trúc, trên núi có thờ Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ. Lúc Hạ thần đến thị sát dân tình thì thấy dân chúng đói khổ vì liên tục trong mùa Xuân và mùa Hạ vừa rồi, mưa không dứt nên mất mùa đói khổ, nhân dân lớn nhỏ đều ngày đêm buồn rầu khổ sở, Hạ thần đốc thúc các quan và bản thân mình cùng đi bộ đến nơi có Thánh Tượng Đại Sĩ để cầu đảo. Đường đi lên núi rất gian nan, mưa ướt hết quan phục, đường đi sạt lở hư hại, những người đi cùng đều than khó nhọc. Khi đến nơi, Hạ thần quỳ dưới Thánh tượng Đại Sĩ chí thành lễ bái xưng niệm cầu đảo, thì lúc trở về, trời liền tạnh mưa, bầu trời không còn một chút mây che, vầng thái dương hé lộ soi sáng thế gian, gió mát thổi nhẹ khắp chốn. Thần lại đốc thúc các quan thuộc cấp và dân chúng trong thành siêng năng làm Phật sự, nhờ vậy mà từ đó trở đi, mưa thuận gió hòa, khắp nơi dân chúng không còn lo về thiên tai, hưởng cảnh an lạc thái bình. Thần tự xét đó chính là nhờ lòng Đại từ Đại bi của Đại sĩ gia hộ cho xứ này vậy. (Trích Thiên trúc chí).
49. Triều nhà Tống, vua Anh Tôn, niên hiệu Trị Bình vào năm thứ hai, vào mùa Thu ngày 3 tháng 8 tại Đô Thành trời bỗng đổ mưa dữ dội suốt ngày đêm, nước ngập tràn khắp nơi, gây thiệt hại lớn cho hoa màu, nhà cửa dân chúng đều bị hư sập. Anh Tôn Hoàng Đế nghe tin vô cùng lo buồn, lập tức hạ chiếu cho các đại thần và dân chúng tìm cách để ngăn chận nạn lụt. Quan Tể Tướng Tằng Công Lương khi tiếp chiếu của vua xong có đến gặp Trần Thông tri huyện Hàn Châu, liền được khuyên nên dâng biểu cho Anh Tôn Hoàng đế biết rằng nơi Viện Thiên Trúc tại Kháng Kinh có thờ phụng Quán Âm Đại Sĩ từ đời Thập Tấn cho đến nay. Tất cả dân chúng nơi này đều đến nương nhờ Bồ Tát để được hưởng ân đức cứu khổ của Ngài, sự linh nghiệm không thể kể xiết. Anh Tôn Hoàng đế đọc biểu xong bèn hạ lệnh cho các quan mau đến nơi ấy chí thành chiêm bái, cầu đảo lễ bái Đại Sĩ. Tằng Tể Tướng tiếp chỉ, lập tức cùng các quan lên đường đến cầu đảo Bồ Tát, chỉ trong một thời gian ngắn thì mưa liền dứt. Anh Tôn Hoàng Đế mừng rỡ bèn ban sắc tứ cho Viện Thiên Trúc là Thiên Trúc Linh Cảm Quán Âm Viện. (Trích Thiên trúc Chí).
50. Triều nhà Đường, Thiện Vô Úy Tam Tạng Pháp sư là người Trung Ấn độ. Bấy giờ tại Ấn độ bị nạn hạn hán lớn hoành hành nên dân chúng bái thỉnh Pháp sư làm phép đảo vũ. Lúc Pháp sư làm phép, tất cả dân chúng đều nhìn thấy Quán Âm Bồ Tát đứng trong mây ngũ sắc, tay bưng Tịnh bình, tay cầm nhành dương rưới nước cam lồ xuống nhân gian, ngay lúc ấy một trận mưa đến, nước ngập đến ống chân. Vua quan và dân chúng đều cảm động và tán thán là việc chưa từng có. (Trích Cao Tăng truyện – Tập 3).
51. Triều nhà Tống, vua Triết Tông, niên hiệu Nguyên Phù vào năm thứ hai, suốt mùa Hạ mà trời không có hạt mưa nào. Lúc ấy có vị quan Thái thú ở Viên Châu, tỉnh Giang Tây đi đến tháp đá thờ Xá Lợi ở núi Mộc Bình, chí thành đảnh lễ cầu đảo. Do tâm niệm chí thành, cảm ứng đến Đại Sĩ nên Ông nhìn thấy Đại Sĩ mặc bạch y, thân kim sắc mang chuổi anh lạc từ trong núi phóng hào quang đến, lại nhận được hạt xá lợi năm màu lớn như trái táo, phía trong có hình ảnh của lầu các. Khi Ông tiếp tục đi đến Bảo tháp ở Cỗ Sơn cầu đảo thì lại thấy Đại Sĩ hiện thân ở Từ Châu, có Duy Ma Cật Bồ tát cùng với La Hán đứng hầu tả hữu, sau đó thì trời đổ xuống một trận mưa, nước ngập khỏi bàn chân. (Trích Phật Tổ Thống Ký).
52. Triều nhà Tống, vua Chơn Tông, niên hiệu Hàm Bình vào năm đầu, từ tháng giêng đến tháng năm trời không có một hạt mưa. Chơn Tông Hoàng đế cùng với các quan đi các nơi cầu phép đảo vũ nhưng không có kết quả gì, mà ngược lại mỗi ngày một nắng gắt hơn. Bấy giờ cán sự trung Trương Khử Hoá, trấn thủ tại Hàn Châu là một vị quan có tâm nhân từ, thương dân như con. Nhìn thấy cảnh tình này nên Ông đích thân đốc xuất tất cả mọi người đi đến chùa Phạm Thiên, đến trước Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ nhất tâm cầu đảo. Chỉ trong một thời gian ngắn, đương lúc nắng như thiêu đốt thì bốn phía mây kéo về đen kịt rồi môt trận mưa lớn đổ xuống ngập hơn mắc cá chân. Vua quan cho đến dân chúng không ai không vui mừng. Chơn Tông Hoàng đế vui mừng, liền ra chiếu chỉ cho nhân dân toàn quốc từ đây phải nhất tâm quy hướng về Tam bảo, mỗi lúc quốc gia có đại nạn thì không cầu xin thần thánh mà một lòng hướng về Quán Âm Đại Sĩ. (Trích Thiên Trúc Chí).
53. Triều nhà Tống, đời vua Lý Tông, vào niêu hiệu Thuần Hữu, suốt mấy tháng liên tiếp, trời đều không có giọt mưa nào. Tướng Soái Nhan Giáp Trọng tại Kiến Giang nhìn thấy tình cảnh khốn khổ của dân nên rất thương cảm bèn một mình đi bộ vào trong Động Quán Âm, chí thành cầu đảo. Ông nhìn thấy Quán Âm Bồ Tát hiện tướng hoan hỉ, mĩm cười. Lập tức, ngay lúc ấy thì trời đổ xuống một trận mưa rất lớn. Tướng Soái vui mừng không kể xiết, kính cẩn lễ tạ rồi đội mưa trở về. (Trích Phổ Đà Sơn Chí).
54. Triều nhà Minh, niên hiệu Cảnh Thái, năm thứ 6, vào mùa Hạ, dân chúng ở hai tỉnh Giang Tô và Giang Tây đều bị nạn hạn hán, hoa màu, lúa đậu lương thực đều chết, đói khổ vô cùng, không biết làm cách gì để thoát được tình cảnh khốn khó này. Bấy giờ Quan trấn thủ Nguyễn Công bèn cùng với Đại thần Phiên Cao và Bộ Binh Thượng Thư Tôn Công đồng phát nguyện trai giới thanh tịnh, không gần nữ sắc, đích thân Ông đi bộ đến chùa Thượng Thiên trúc, cung nghinh Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ về chốn sơn lâm để kiến lập đạo tràng đảo vũ. Lúc làm lễ, mặt trời đang nóng như thiêu đốt, thì bỗng nhiên bắt đầu bốn bề mây che dầy đặc trên trời, đến xế chiều thì tiếng sấm vang rền và một trận mưa đổ xuống liên tục trong hai, ba ngày, làm cho đồng lúa hoa màu đương khô héo liền hóa thành xanh tươi, dân chúng ở hai tỉnh này ai ai cũng tán thán. Trấn thủ Nguyễn Công vô cùng cảm niệm ân đức cao dày của Bồ Tát nên xuất tiền của mướn thợ đóng khánh và may áo mão tốt đẹp cùng với lễ vật trang nghiêm để cung nghinh Thánh tượng Đại Sĩ trở lại chùa. (Trích Thiên Trúc chí).
55. Triều nhà Minh niên hiệu Gia Tỉnh, năm thứ hai mươi bốn. Trong suốt sáu tháng từ Xuân đến Hè, trời nắng như thiêu đốt, vì vậy giá lúa gạo đều lên cao, dân chúng không đủ lúa gạo ăn nên chết đói nhiều vô kể, tử thi ngổn ngang khắp các nẻo đường, phơi khô dưới ánh nắng, thảm cảnh thật đau lòng. Uyển Tạ Công là một vị quan nội triều thời ấy, nhìn thấy cảnh tình của dân chúng như vậy nên rất đau lòng, Ông thuê người đi khắp nơi cầu đảo chư sơn thần khắp nơi, lại thỉnh đạo sĩ các phương dùng pháp thuật phù chú để đảo vũ nhưng trải qua nhiều ngày tháng, trời càng ngày lại càng nóng dữ dội. Tạ Công lúc ấy sực nhớ đến Quán Âm Bồ Tát là đấng Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh nên đốc thúc bá quan và dân chúng đồng phát nguyện mộc dục trai giới thanh tịnh, mặc đồ tổ phục, đích thân đi bộ đến Thiền Viện Hải Hội cung nghinh Thánh tượng Đại Sĩ vào non Thiên trúc Phật quốc, kiến lập đạo tràng đảo vũ. Ông lại bái thỉnh Tăng Cang Lương Tấn cùng với hai vị trụ trì Huệ Lâm Đạo Hiển ở Thượng Thiên Trúc và quí Tỳ Kheo đồng vào đạo tràng, mai chiều bái sám tụng kinh cầu đảo, mong được cảm ứng hiện tiền. Trước khi cầu đảo, Ông dùng tịnh bình, nhỏ nước làm sự ứng nghiệm. Qua ngày sau thì nước trong tịnh bình nhỏ xuống từng giọt như hạt ngọc. Quả nhiên không lâu sau thì có một trận mưa nho nhỏ làm ướt đất, vài ngày sau, lúc nước trong tịnh bình phun ra giọt lớn thì bên ngoài xảy ra một trận mưa to liên tiếp mấy ngày. Bấy giờ, những người còn sống sót vui mừng vô tả, mọi người đồng hướng về Quán Âm Đại Sĩ lễ niệm tụng kinh để cảm tạ ân đức Đại từ Đại bi của Bồ tát. (Trích Thiên Trúc Chí).
56. Triều nhà Thanh, có Phật tử Tri Huy Tử Bành Tế Thanh là người Tường Châu, tỉnh Giang Tô. Ông từng thuật lại câu chuyện như sau: Tháng Sáu mùa Hạ năm ấy ở Tô Châu có đại hạn, lúc ấy tôi ngụ tại Văn Tinh Cát, nguyện kiết thất 21 ngày, chí thành trì tụng Chú Đại bi và gia trì Thánh hiệu Tây Phương A Di Đà Phật. Mỗi ngày tôi chỉ dùng một bữa ngọ. Khi mãn kỳ thất thì mưa liên tiếp mấy ngày, nước dâng cao lên được nửa thước. (Trích Hải Nam Nhứt chước).
57. Triều Nhà Tấn có thầy Thích Đạo Chu, họ Quảng là người Hối Lạc ở Sóc Phương, xuất gia tại chùa Long Hưng. Thầy từng trích lấy máu để họa Thánh tượng Thiên thủ Thiên nhãn Đại bi Quán Thế Âm. Bấy giờ nhằm vào lúc đại hạn, Thầy nguyện tuyệt thực, rồi ngồi kiết già nhắm mắt, nhất tâm thành kính chuyên niệm Thánh hiệu Đại Sĩ, nguyện khi nào có mưa mới ăn uống lại. Vào niên hiệu Trung Hòa năm thứ hai, nghe nói có quan phủ nổi loạn, dân chúng bị nhiểu nhương nên Thầy đi đến nơi Pháp Niệm Định Viện ở phía Nam đô thành. Thầy phát nguyện chặt cánh tay bên tả, làm đuốc cúng dường tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu xin Bồ Tát gia ân cho sớm chấm dứt nạn binh đao. Lại có một dạo, dân chúng bị nạn hạn hán, Thầy bèn cắt lỗ tai bên tả để đảo vũ, lại tuyệt thực bảy ngày để cầu xin cho sương tuyết rơi xuống. Tất cả nguyện của Thầy đều được như ý nguyện. Thầy hưởng thọ đến bảy mươi tám tuổi. Sau khi viên tịch, thi hài Thầy không liệm, nhưng trải qua thời gian lâu nhìn vẫn như người còn sống đang nhập thiền định. Vua quan dân chúng mến thương Thầy, bèn làm sơn son thiếp vàng bên ngoài nhục thân của Thầy để thờ cúng. (Trích Cao Tăng truyện – Tập 3).
58. Triều nhà Tống, vua Chơn Tôn vào niên hiệu Tường Phù, năm thứ 9. Vào khoảng tháng chín thì bỗng nhiên có dịch phi hoàn nổi dậy (phi hoàn là những con sâu biết bay ăn hại lúa thóc hoa màu), tàn phá hoa màu làm cho dân chúng vô cùng kinh hãi. Chơn Tông Hoàng đế rất lo buồn vì đã dùng nhiều phương cách mà vẫn không diệt được nạn sâu này, càng ngày dịch sâu càng mạnh. Hoàng đế liền sai Trung sứ cùng bá quan đến trước Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ, chí thành cầu nguyện. Vào lúc giờ Ngọ ngày 30 tháng ấy, ánh nắng đang chiếu sáng như thiêu đốt thì đột nhiên mây kéo đến từ phía Tây Bắc, che phủ dầy đặc, sấm chớp vang rền, trong chốc lát đổ xuống một trận mưa đá còn hơn tên đạn, tất cả các ấu trùng sâu, khắp các nẻo đường đều bị nước cuốn trôi, các loài sâu đều biến mất. Chơn Tông Hoàng Đế vô cùng cảm động đức Đại từ Đại bi của Bồ Tát nên hạ lệnh cho tất cả quan dân đương thời đều một lòng kính hướng về Đại sĩ. (Trích Thiên Trúc Chí).
59. Triều nhà Tấn có Lưu Tác Hà là người ở huyện Ly Thạch, tỉnh Hà Tây, bỗng nhiên bị bệnh rồi qua đời, nhưng do nơi tim vẫn còn ấm nên người nhà chưa nở tẩm liệm và đem chôn. Trải qua mười ngày thì Ông sống lại và thuật lại câu chuyện sau: “Khi tôi bệnh và mê man thì có hai vị quan lại đến bắt và đem đi về hướng Tây Bắc, trên đường đi Tôi nhìn thấy mười tám cảnh địa ngục vì tội khinh trọng mà bị các hình phạt khác nhau. Lúc ấy, Tôi trông thấy Quán Âm Bồ Tát hiện thân bảo: “Số người chưa hết, khi trở về nhân gian nên xuất gia làm sa môn. Ở Lạc hạ, Tề thành, Đơn Dương đều có tháp của A Dục Vương, nhà ngươi nên đến đó lễ bái cúng dường. Do phước đức này khi mệnh chung, sẽ không đọa vào địa ngục.” Bồ Tát dứt lời thì tôi cảm thấy như mình té từ trên cao xuống và sống dậy.” Vâng lời Bồ Tát, khi sống lại Ông đi xuất gia lấy pháp danh là Huệ Đạt, khi đến các tháp trên lễ bái thì được chính mắt thấy xá lợi của Phật đang thờ trong tháp A Dục Vương (Trích Lương Thờ).
60. Triều nhà Đường, Manh Tri Kiệm là người ở Tỉnh Châu. Lúc còn trẻ Ông bị bệnh, không bao lâu thì chết. Trong thời gian ngắn thì sống lại, Ông kể lại câu chuyện sau. Lúc vừa chết, Ông nhìn thấy tự mình đi đến một cái Phủ như trên dương gian nên lúc ấy không biết mình đã chết, Ông gặp một người quen làm quan trong phủ này. Tri Kiệm bèn hỏi vị quan làm sao mình đến được nơi đây? Vị quan cho Tri Kiệm biết đây chính là chốn Diêm phủ rồi sau khi kiểm tra sổ bộ xong bèn nói: “Ông lúc bình sanh có tu được phước gì đâu, làm sao mà trở về được.” Tri Kiệm bèn đáp: “Tôi lúc bình sanh suốt đời tụng Kinh Bát Nhã Tâm Kinh, Phổ Môn, không nhớ rõ số là bao nhiêu nhưng chắc cũng phải được ba, bốn vạn biến”. Vị quan kia nghe xong, kiểm tra lại sổ bộ thì quả nhiên đúng như vậy bèn đem việc này tâu lên Minh Vương. Minh Vương nghe xong liền phán phải mau lập tức phóng thích cho Ông hồi dương. Vị quan lại hỏi Tri Kiệm: “Ông có muốn biết việc tương lai của mình không?” Tri Kiệm đáp: “Rất muốn”. Vị quan ấy liền dùng sổ bộ chỉ cho Tri Kiệm xem thì thấy dòng chữ Mạnh Tri Kiệm sau này sẽ làm quan Tham quân tại Tào châu, sau lại được thăng chức lên đến vị trí quan coi kho của nhà nước. Xem đến đây thì vị quan gấp sổ lại không cho xem tiếp. Tri Kiệm bước lên phía trước thì lọt vào trong chốn hoang vu, rậm rạp, bất cẩn sụp vào một cái hố thì giật mình sống lại. Sau khi sống lại thì vào lúc triều đình hạ lệnh tuyển người làm quan coi về việc vận tải lương thực, Tri Kiệm được tuyển dụng làm Tham quân ở Tào châu. Khi hết nhiệm kỳ, lại tiếp tục được tuyển dụng làm Ty thương ở Đặng Châu. Một thời gian sau thì được tuyển dụng làm Phán Ty ở Tân châu, nhưng trên đường đi nhậm chức thì chưa đến nơi đã từ trần. (Trích Triều Giả Thiên Bút Ký).
61. Triều nhà Tống, niên hiệu Thuần Hy có nữ Phật tử tên là Lý Thị ở Nhiên Châu bị bệnh chết, sau đó Bà sống lại rồi thuật lại câu chuyện sau: Lúc mới đến Minh phủ, Tôi đi ngang qua chốn đồng nội lối vài dặm thì đến một thành lớn, nghe trong ấy có tiếng người ồn ào nhưng bên trong lại tối tăm. Tôi tự nghĩ mình tụng kinh Phổ môn đã ba mươi năm, hôm nay lạc vào cảnh giới của quỷ, Bồ tát ở đâu nở sao không cứu. Sau khi nghĩ vậy rồi thì lớn tiếng niệm Nam mô Đại từ Đại bi Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát một trăm biến, thì bỗng nhiên cảm thấy như có người nắm tay bên tả dắt đi dần đến chổ quang minh như ban ngày. Lúc ấy Tôi thấy Đại sĩ hiện thân nữ, tướng hảo đoan nghiêm, đeo chuổi anh lạc, chói sánh rực rỡ, lại ngửi thấy mùi hương thơm ngào ngạt. Tôi chí thành quỳ xuống cầu xin Bồ tát cứu mạng. Đại Sĩ dạy: “Số nhà ngươi đã hết nhưng do bình thường tinh tấn tu niệm đầy đủ thiện căn nên Ta đến cứu độ, cho hồi dương sống lại nửa kỷ rồi sẽ gặp lại nhau.” Lúc ấy, Tôi thành tâm cúi đầu lễ tạ thì Bồ tát lướt mây bay vút về hướng Tây phương, xa xa nhìn thấy phía trước Bồ tát có bảo cái tràng phan, cảnh giới ấy chói sáng rực rỡ, sau đó liền thấy mình sống lại. Trải qua hơn năm năm thì khi đến ngày giờ, Lý Thị thân không bệnh khổ, an nhiên niệm Phật mà thệ thế. (Trích Pháp Hoa Cảm thông)
62. Triều nhà Tống có nữ Phật tử là Lý Quận, vốn là người hiền từ đức hạnh. Một hôm, có một bà lão mang chuổi ngọc đến nhà xin bán, Lý Quận không mua nên bà lão ấy ra về, lúc đi ra lại đánh rớt chuổi ngọc xuống đất. Mấy hôm sau Bà lão trở lại kể rằng vài hôm trước có mang chuổi ngọc đến đây bán nhưng gia chủ không mua nên mang về, trên đường về thì đánh rơi mất chuổi ngọc nên người chủ đòi bồi thường. Tuy nhiên có bán hết cả gia sản của Bà cũng không đủ tiền đền bù, quá buồn khổ nên Bà uất ức sanh bệnh, nằm liệt giường mấy ngày, hôm nay chống gậy đến đây kể chuyện này để bớt cơn buồn khổ. Lý Quận nghe nói xong thì bảo với bà lão chớ có buồn rầu và lấy chuổi ngọc trao lại cho bà lão. Bà lão chấp tay xá lia lịa tạ ơn không nói nên lời. Về sau Lý Quận bị cảm nặng gần chết thì bỗng thấy có người mặc thanh y đem xe đến rước mình, đưa đến chốn Đại Quan phổ. Đến nơi thì thấy có hai vị quan tướng mạo đường đường, ngồi trước ấn hỏi tên họ Lý Quận, chừng đó Bà mới biết mình đã đến chốn Minh ty. Do bình thường Bà trì tụng Chú Đại bi nên ngay lúc ấy dù không niệm ra tiếng nhưng Bà vẫn khởi tâm mặc niệm. Ngay khi vừa khởi tâm niệm thì Điện đường dường như muốn sụp đổ, các quan tả hữu đứng hai bên kinh sợ suýt té. Hai vị quan bèn đứng dậy nói: “Xin Bà đừng tụng nữa, tôi sẽ cho người đưa Bà trở lại dương thế”. Bấy giờ có một vị phán quan, cầm sổ bộ tiến tới trước án hỏi Bà có nhớ sự việc trả chuổi ngọc cho bà lão không thì Lý quận trả lời có. Vị Quan này nghe xong thì cầm bút lên nói: “Tôi xin tặng bà thêm hai mươi năm tuổi thọ.” Nghe vậy, vị quan còn lại liền can ngăn: “Ngài cho nhiều quá”. Vị Quan kia trả lời: “Ngài nên biết hàng phụ nữ ở thế gian ai lại không yêu mến châu ngọc nhưng Lý Quận này thì không một mải móng tâm tham, đã là sự việc hiếm có. Hơn nữa, công đức trì chú tụng kinh lớn không nói được. Như thế thì tăng thêm tuổi cho Lý Quận hai mươi năm để hưởng phước đời chẳng đáng hay sao?” Nói rồi liền bảo người đưa Bà về dương thế. Lý Quận sống thêm hai mươi năm nữa an vui khỏe mạnh, đến lúc mãn số thì an nhiên niệm Phật thệ thế. (Trích Cảm ứng thiên tăng chú).
63. Triều nhà Tống cuối niên hiệu Thuần Hy có người tên Dương Lượng làm nha môn ở huyện Kiến Xương. Lúc bị bệnh thì thấy có hai vị quan cầm thẻ đến bắt mình. Dương Lượng đi cùng với hai vị quan một hồi lâu thì đến chốn Quan phủ, trong đó có một vị Vương gia hỏi Dương Lượng rằng lúc bình sanh có làm được công đức gì không thì Lượng đáp: “Tôi đem thân bán cho người sai bảo, làm việc đi từ nơi này sang nơi khác, mỗi khi được lệnh làm không dám trái lệnh và trễ nải”. Vương gia bèn nói: “Ta không hỏi việc đó mà chỉ muốn biết ngươi có âm đức gì không?” Bấy giờ Lượng nhìn kỹ thì biết mình đang ở chốn Âm ty nên thưa rằng: “Tôi chỉ biết tụng kinh Phổ môn.” Vương gia lại nói: “Biết tụng kinh Phổ môn là điều rất quý nhưng Ta muốn biết thêm ngươi còn từng làm được thiện sự gì không?” Lượng thưa: “Tôi là hạng tiểu nhân đâu có làm được việc lành gì đáng kể, chỉ biết giữ bổn phận của mình và không làm hại người mà thôi.” Vương gia bảo Phán Quan kiểm tra sổ bộ thì đúng như lời của Lượng đã nói. Vương gia hiện tướng tươi cười và khen rằng: “Như thế thì ngươi cũng thuộc về bậc hiền thiện rồi, đâu cần là quan hay làm người tớ. Nay ta cho người đưa ngươi về dương thế, ráng tụng Kinh niệm Phật và giữ bổn phận như trước. (Trích Thiện Dư Đường bút tường).
64. Triều nhà Minh, Vương Lập Hộ tự Bá Vô ở Đài Châu, niên hiệu Vạn Lịch, năm Bính Tý, phụng lệnh triều đình lãnh trách nhiệm làm giám khảo trường thi. Đêm ấy, Ông nằm mộng thấy cha mình là Vương Tánh Công khuyên nhắc: “Số con mười lăm năm nữa sẽ chết, nếu con cố gắng vun trồng phước đức, phát tín tâm với Tam bảo, ăn chay niệm Phật thì chắc có kết quả tốt.” Tỉnh giấc, Ông phát nguyện trường trai cùng thọ bốn giới sát – đạo – dâm – vọng. Về sau lúc Ông ra làm quan ở Tâm Cam, tỉnh Giang Tây thì đối với việc trường trai, thọ giới lại bỏ hẳn. Năm Mậu Ngọ, Ông vào cung yết kiến Hoàng thượng thì ngay trong đêm sắp đi mộng thấy cha Ông đến buồn phiền quở trách. Sau khi thức dậy, trong lòng Ông rất lo sợ. Sáng ngày Ông đi ghe đến Địch Cảnh, đến nơi là vào lúc canh hai, vì quá mệt mỏi nên vừa nằm xuống là Ông say giấc mộng ngay. Lúc ấy Ông bỗng thấy có hai người mặc thanh y cầm thẻ đến bắt đi. Trong chốc lát thì thấy mình đến nơi Minh phủ, có đại điện rất trang nghiêm, tội nhân bị bắt đến có khoảng vài nghìn người, đứng chật trong sân điện, có người bị xiềng, có người đeo gông, … Trên đại Điện, Diêm vương áo mão trang nghiêm ngồi giữa, hai vị minh quan ngồi hai bên tả hữu, có bàn án trước mặt những người đứng hầu thì hình tướng rất hung dữ đáng sợ. Diêm Vương gọi đến tên Lập Hộ liền quở trách: “Thọ số của ngươi đã hết từ tháng tám năm Bính Thìn nhưng được sống đến nay là nhờ sự trai giới, tại sao ngươi lại bỏ việc làm công đức đó.” Dứt lời thì quăng quyển sổ bộ đến trước mặt Lập Hộ bảo mở xem. Lập Hộ nhìn thấy dưới tên của mình có ghi rõ ngày, tháng, năm, đến tháng 8 năm Bính Thìn thì bỏ trống. Hộ xem xong thì cúi đầu tâu rằng: “Tâu Bệ hạ, làm quan ở thế gian nếu không như vậy thì không thể được vì ngày ngày tiếp xúc với bạn đồng liêu, các quan, đối với việc ăn chay giữ giới rất khó thực hiện.” Diêm Vương bèn quở trách: “Đã được làm quan là do phước lực của trai giới đời trước, đúng lý phải tiếp tục vun trồng, tại sao ngươi ngu si hưởng phước lại tạo tội.” Lập Hộ nghe xong bèn xin cho hồi dương để tiến tu trở lại. Diêm Vương than rằng: “Số ngươi đã hết, giờ có hối cũng biết làm sao?” Dứt lời thì bảo quỉ tốt dắt vào ngục. Lúc ấy vị minh quan phía tả đứng dậy tâu rằng: “Tâu Bệ hạ! Xin Bệ hạ cho dừng lại một chốc để xem lại những việc đã làm sau khi phá giới.” Trong giây lát, có người hầu đội đến hai cần xé lớn, trong đó đều là những sổ bộ văn tự lúc Lập Hộ làm quan ở Tân Cam, giấy yết thị, danh thiếp, … đều có đủ trong ấy. Các giấy tờ này hiện lên theo màu sắc không đồng nhau: trắng, xanh, đỏ lẫn lộn. Diêm Vương bảo Minh Quan kiểm tra và xếp lại, đầu tiên là màu đen và màu xanh để vào một chổ, sau đó là màu trắng và đỏ để thành một chổ. Đống màu xanh dần dần mờ nhạt, còn đống màu đen dần dần nhỏ lại như chiếc đũa, đống màu đỏ thì lại chói sáng rực rỡ. Hộ đứng bên cạnh lén nhìn trong đống đỏ thì thấy chính là Kinh Kim Cang Bát Nhã tự mình đã khắc bản in ấn lúc còn sống và quyển Hiểu Sinh Biên Xã Thưởng. Diêm Vương xem qua thì sắc diện có phần hòa dịu, ngó hai vị quan tả hữu rồi phán rằng: “Ngươi cũng thuộc về người biết vun trồng phước đức, chỉ tổn nhãn quan, thân mạng có thể được an toàn, khỏi xua vào ngục.” Nói rồi hạ lệnh cho quỉ tốt móc mắt để trên cột. Hộ thấy sáng chói lập lòe tự nghĩ: mắt mình đã bị móc, đâu còn xem thấy được. Vừa nghĩ đến đây thì bỗng nhiên mọi thứ trở thành tối đen. Bấy giờ vua quan điện đường đều không thấy nữa. Ngay lúc ấy, Hộ có cảm giác như có người vỗ tay hối thúc mình bảo: “Đi mau, Đi mau.” Vì phải đi mau nên liền trợt chân té, rồi tỉnh dậy. Bấy giờ gà đã gáy sáng. Hộ nghe tiếng khóc của gia nhân xung quanh thân mình, Hộ hỏi nguyên cớ thì họ bảo: “Từ lúc canh hai đến giờ, Ông mê mang bất tỉnh, tay chân lạnh ngắt, hai hàm răng ngậm cứng. Chúng tôi rước Thầy y đến thì bảo rằng Ông trúng phong, phát lãnh, đổ thuốc đã bảy lần nhưng không hiệu quả.” Hộ mở mắt nhưng thấy ánh đèn như kim châm, mắt mình không sao mở được, tự biết là do nghiệp báo, không thể chữa thuốc men nên quyết tâm xin hồi quan trở về cố lý. Sau khi về nhà, Ông gác bỏ mọi việc, chuyên tu Tịnh nghiệp, hàng ngày chí thành trì tụng Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa, mai chiều không giải đãi. Vào tháng bảy năm Canh Thân, sau khi lễ sám, vào đêm ấy, Ông mộng thấy Đại Sĩ dùng cành dương rưới nước cam lồ vào trong đôi mắt. Sáng ngày thức dậy, hai mắt sáng lại như thường. Về sau Ông du hành đến nhiều nơi danh lam, yết kiến Tổ Vân Thê, Bát sơn, v.v… rồi phát nguyện xuất gia tu hành tinh tấn, lấy hiệu là Bích Như Đại Sư. Ông sống thêm được mười hai năm nữa. (Trích Hồi Sanh Tự Ký).
65. Triều nhà Minh niên hiệu Vạn Lịch, Chánh Côn theo chú là Lâm Đường đến chùa Vạn Đức học hỏi Phật pháp, lại tham phỏng với Phổ Môn Đại Sư nên có chổ tỉnh ngộ, phát tâm quy y Tam Bảo, chuyên tu Tịnh nghiệp. Côn là thầy giáo, nên ngoài giờ dạy học, thường khuyên nhủ học trò nên trường trai và niệm Thánh hiệu Tây phương A Di Đà Phật. Trong số học trò này, Dịch Đức là người có tâm tín kính sâu dày, nên phát nguyện chép KInh Đại Bi năm mươi quyển, Kim Kim Cang ba mươi bộ. Vào ngày 29 tháng 5, Dịch Đức tắm nơi suối Cẩm Khê, bị bạo bệnh chết. Mọi người khiêng xác về nhà thì tử thi nằm trên giường bỗng cất tiếng nói: “Ta đây chính là Hộ pháp thần, hầu phía Tả đức Phật. Dịch Đức nhân vì đời trước làm quan, giết lầm nhiều người nên đã bị oan hồn bắt vào Minh phủ. Do Ông ấy có thiện niệm, thờ Phật kính thành, và chép Kinh nên Ta đến đây đặc biệt ủng hộ. Chánh Côn, nhà ngươi nên vì Dịch Đức mà niệm Phật tụng Kinh, đợi đến ngày mùng bảy sẽ hoàn hồn, để viết Kinh thù đáp bổn nguyện, nương nhờ công đức ấy mà oan hồn của các quỉ được siêu thăng.” Hộ Pháp nói mấy lời trên rồi bảo rằng: “Ta đi đây!” Đến ngày mùng bảy, quả nhiên Dịch Đức sống lại, tự đấm lưng mình kêu la bị té rất đau. Chú của Đức hỏi nguyên cơ thì Đức đáp: “Lúc cháu tắm suối Cẩm Khê thì thấy hai người cầm thẻ bài đến gọi, cháu theo hai người ấy đi một hồi lâu thì đến chốn bảo điện rất trang nghiêm, thấy có tấm bảng đề là “ Sum La Điện”. Trong ấy có Diêm Vương ngự nơi bàn án. Con vừa đến thì thấy có vô số quỷ đầu trâu mặt ngựa, đua nhau đến trước đánh con tới tấp như mưa. Trong tâm con nghĩ mình là Phật tử ăn chay niệm Phật nên gặp cảnh khổ đau này thì phải an nhẫn. Tiếp đó Con bổng nhiên nhận biết đời trước làm một vị tướng quân đã lầm giết hại sanh mạng của tam trăm người, ác nghiệp đã gây thì khi quả báo thuần thục phải trả. Lúc ấy, Con khóc lóc tỏ bày với Diêm Vương vì việc triều đình mà lầm lẩn gây tội nghiệp như thế. Diêm Vương hiện vẻ giận dữ bảo rằng: “Tội này đáng phải nấu trong dầu sôi”. Nói dứt lời thì có quỉ tốt, thân xanh mặt lửa khiêng một chảo dầu to, sôi sùng sục đến. Nhóm quỉ tốt áp đến trói Con toan ném vào chảo thì trước điện bỗng phóng đến một đường kim quang làm tan biến cảnh tối tăm, Con nhìn lên thì thấy cảnh tượng sáng rỡ, Vi Đà Tướng Quân và Quan Đế Thánh Quân đứng ở không trung. Vi Đà cầm bảo xử nhảy vào chảo dầu sôi, tự nhiên trong chảo dầu, hoa sen mọc đầy trong chảo. Diêm Vương nhìn thấy tức khắc rời khỏi tòa, chí thành chấp tay đảnh lễ và ra lệnh phóng thích Con về, bảo hai người bịt khăn vàng đưa đi đường, đi qua núi Tuấn Lãnh thì người bịt khăn vàng xô Con té xuống nên tỉnh dậy. Tỉnh lại thì thấy lưng bị đau, Chánh Côn nghe xong thì vui mừng đỡ cháu đến trước Phật đài lễ tạ Phật, Bồ Tát Vi Đà và Quan Đế. Sau khi lễ Phật thì thân thể Dịch Đức khỏe mạnh như xưa. Mỗi ngày Anh chí thành viết hai bộ Kinh nói trên để ấn tống. Cả nhà sau đó đều theo gương Anh ăn chay và niêm Phật rất tin cần. (Trích Kim Cang Quả báo lục).
66. Sử Sĩ Nghiêm Tập Chí tự Thủ Kinh ở xứ Phù Lương là một Phật tử tu hành rất tinh tấn, hàng ngày chuyên trì tụng Kinh Kim Cang và Kinh Phổ Môn. Trải qua hơn hai mươi năm, ngày nào cũng y như vậy không thiếu. Ông lại thường khuyên người trì tụng. Trong số người khuyến hóa để tạo lòng tin, Thủ Kinh có kể lại câu chuyện như sau: Niên hiệu Đạo Quan, năm thứ 15, nhà Thanh, vào ngày 23 tháng 6, cháu của Thủ Kinh tên là Thoại Năng, trong lúc bị bệnh hôn mê bất tỉnh thì thấy một người đến bắt, dắt đến nơi một điện đường. Thoại Năng đến đó thì nghe có tiếng hoan hô: “Đại Bồ Tát giáng lâm.” Hai vị minh quan lập tức rời chổ ngồi, bước xuống nghinh tiếp. Thoại Năng lúc ấy nhìn thấy Bạch Y Đại Sĩ trên thân choàng khăn liên hoa màu đỏ sáng, phía sau có một ông già mặt đen theo hầu Bồ Tát. Hai vị Đại quan truyền lệnh cho bộ hạ thiết lập bảo tòa, thỉnh Bồ Tát ngồi. Bồ Tát vừa an tọa thì ngó vị quan bên tả quở rằng: “Các Ông làm việc không thuận theo trong sổ bộ. Thoại Năng này tuổi dương thế chưa hết tại sao lại bắt đem đến đây?” Hai vị quan nghe nói giật mình, rời chổ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Bồ Tát xin thứ lổi, đoạn gọi người lính dịch đến quở trách và đánh cho bốn mươi trượng phạt tội. Bồ Tát bèn nói: “Thoại Năng này sống trong gia đình đã ba đời không ăn thịt trâu, thịt chó, nam nữ cả nhà đều trì trai, tụng kinh Phổ Môn, hiện có ông già này ở nhà đó làm chứng.” Lúc này Thoại Năng mới biết ông già mặt đen đi sau Bồ Tát chính là Thần Ty mạng. Bồ Tát quở trách hai vị Đại quan xong thì dẩn Thoại Năng ra khỏi điện đường đi xem các ngục. Trước tiên là đến ngục giã cối, thấy quỉ tốt bắt người tội ném vào cối, mỗi khi giã chày xuống, máu phun ra như bình hoa tưới nước, thịt rã rời văng ra như bắn bông. Đại Sĩ bảo Thoại Năng: “Ngươi chớ có đến gần vì sinh hồn của ngươi không nên dính vật ấy.” Thoại Năng vội lấy vạt áo che mặt. Kế tiếp Bồ Tát dẫn đi xem địa ngục kéo lưỡi, địa ngục xay sát, địa ngục chém chặt, địa ngục cưa xẻ, địa ngục ôm cột đồng nóng, địa ngục nằm giường sắt, v.v… Sau khi xem xong thì Bồ Tát dẫn Thoại Năng ra về và căn dặn rằng: “Sau khi ngươi hồi dương phải khuyên bảo tất cả mọi người trong nhà cố gắng ăn chay niệm Phật. Với những việc này phải chí thành, đừng làm lấy có. Nếu trường trai không được thì cũng phải ăn theo trai kỳ nhưng không được viện lý do đổi ngày này sang ngày khác hoặc bỏ quên. Hôm nay là ngày trai kỳ nhưng nhà của ngươi đều quên hẳn, từ đây về sau phải gắng nhớ cho kỹ và nên nhớ khi trở về nhà thưa lại với bà Nội của ngươi rằng Kinh Kim Cang mà bấy lâu nay Bà đã trì tụng trong nhiều năm qua có công đức không thể nghĩ bàn, đừng nghe theo những người vô trí cho rằng tụng Kinh Kim Cang thì trong nhà sẽ xảy ra việc này việc nọ, có trước không sau là đều không tốt. Còn về bệnh trạng của ngươi thì không hề gì đâu nên cố gắng tinh tiến hơn trước để thành người tốt.” Trong chốc lát đã thấy Bồ tát dẫn đến cửa sau, rồi Ngài vỗ đầu bảo “Tỉnh dậy, ngươi về đến nhà rồi.” Thoại Năng sau đó tỉnh lại, cảm thấy khỏe khoắn như thường. Sau khi tỉnh dậy thì thuật lại cho cả nhà nghe chuyện dưới Âm Ty. Bà nội của Thoại Năng và cả nhà từ trên xuống dưới, từ đó tụng Kinh niệm Phật rất tinh cần, những người không trường trai cũng đều giữ nghiêm ngày trai kỳ. (Trích Đặng Đạt Nguyên Tự thuật).
67. Triều nhà Thanh, Bá Vạn An tự Thiên Hựu là người huyện Thường Châu, tỉnh Giang Tô. Ông là người tín phụng Phật pháp từ lúc nhỏ. Bình sanh Ông ưa thích làm tất cả thiện sự. Ông từng kể cho một Phật tử là Bằng Xích Mộc Tiên sinh nghe câu chuyện về thân mẫu của mình là Đào Thị nương nhờ từ lực của Quán Âm Đại Sĩ, bị bệnh đã chết nhưng được sống lại. Ông thuật lại như sau: Mẫu thân của Ông năm sáu mươi bốn tuổi bị bệnh nặng nên Ông từ Giang Tô được tin bèn tức tốc trở về nhà. Thấy Mẹ nằm trên giường bệnh, đã tắt hơi nhưng vì ngực còn hơi ấm nên cả nhà không nở tẩn liệm. Vạn An nhìn thấy tình cảnh này thì lòng đau như cắt, không nói được một lời, vội đến trước Thánh tượng của Quán Âm Đại Sĩ chí thành lễ bái cầu đảo, nguyện tụng Chú Bạch Y đến mười hai ngàn biến, giảm tuổi thọ của mình một kỷ để cho Mẹ được sống thêm. Lúc quì trước Phật đài tụng Chú, hai dòng lệ tuôn rơi, tiếng khóc lẫn với tiếng trì chú làm ai trông thấy cũng rơi lệ. Đến sáng ngày thì mẫu thân của Vạn An tay chân cử động và mở mắt ra nhìn bốn phía, sau đó đòi uống nước. Sau vài ngày thì Mẹ của Vạn An khỏi bệnh hẳn. Sau khi sống lại thì mẹ Ông tự thuật chuyện sống lại của mình như sau: Lúc mới chết thì Bà thấy có hai vị quan đến dẫn đi. Trải qua các Ty, Thổ Địa, Thần Hoàng, tiếp đến là Phủ Đông Nhạc. Khi đến đây thì Phủ Quan nói với Bà: “Ngươi có đứa con chí hiếu. Trước Quán Thế Âm Đại Sĩ chí thành cầu đảo, lại thành kính trì Chú, nguyện bớt tuổi thọ của mình để thêm tuổi thọ cho Mẹ. Do tâm chí thành cảm đến Quán Âm Đại Sĩ nên tuổi thọ của ngươi được tăng thêm trên dương thế.” Nói dứt lời, vị Phủ Quan ra lệnh cho người dẫn Bà ra khỏi Phủ rồi phóng thích về dương thế. Vạn An thấy Mẹ sống lại nên vui mừng khôn xiết, Ông quỳ xuống trước Mẹ rồi thưa: “Thưa Mẹ, Mẹ nhờ có Quán Âm Bồ Tát cứu sống lại nên giờ này đừng lưu tâm việc gì nữa, chỉ nên tu Tịnh nghiệp, cầu nguyện vãng sanh.” Nói rồi, Vạn An dọn riêng một gian nhà, bên trong thờ Tây Phương Tam Thánh. Đào Thị thấy con chí hiếu thì vô cùng cảm động nên phát nguyện trường trai. Mỗi ngày ba thời: sớm mai, trưa và chiều ở trong Tịnh thất cầm chuỗi, thành kính chuyên niệm Thánh hiệu Tây Phương Di Đà, mỗi thời tụng nghìn biến. Bà sống thêm 12 năm nữa thì lúc bảy mươi sáu tuổi nhằm ngày 15 tháng 9, vào buổi sáng thức dậy sau khi lễ Phật, niệm Phật xong thì bảo với Vạn An rằng: “Mẹ sắp về Tây phương, con nên mời bà con thân thuộc đến để Mẹ từ biệt. Khi thân quyến và tất cả con cháu đã tề tựu đông đủ thì Đào Thị vui vẻ từ biệt mọi người rồi căn dặn các con: “Giờ phút cuối cùng của Mẹ, các con phải thận trọng, chớ có khóc kể.” Bà ở lại thêm ba ngày, ngày đầu uống năm, sáu chén nước nóng, đến ngày thứ ba mới sáng thức dậy, Bà tắm gội thay đổi y phục, đến nơi giường nằm xuống rồi bảo con cháu vây quanh niệm Phật, Bà nằm nghiêng bên tay phải, đồng niệm Phật theo rồi an tường thệ thế (Trích Nhất Hạnh Cư Tập).
68. Triều nhà Thanh, Chương Khai Nguyên là người huyện Nam Phong, tỉnh Giang Tây. Niên hiệu Gia Khánh, năm thứ 25 vào ngày 14 tháng 3, Khai Nguyên cưỡi ngựa để tập bắn. Do sử dụng lực quá mạnh nên bị té nhào xuống đất bất tỉnh nên Nguyên được mọi người khiêng về chổ ở. Khai Nguyên nằm trên giường rên la rất thảm. Trong lúc hôn mê Ông thấy một vị quan, tay cầm thẻ bài, tay nắm cây côn, đến lôi Ông dẫn đi. Lúc ấy phía sau bỗng có người kéo lại mà nói rằng: “Ông lôi người ta đi đâu, Ông nên biết người này dù làm quan nhưng vẫn tin Phật pháp. Hàng ngày đều có tu trì, thường tụng Kinh Phổ Môn rất chí thành. Lại từng trích trong Bộ Kính Tín Lục những điều mà con người phạm tội rồi tự sao chép thành mười bộ bộ, phân phát cho người xem để khuyên họ tránh dữ làm lành. Người này còn y theo Đô Giang nói khuyên người lánh xa tội ác, siêng tu hạnh lành, chẳng những thế lại phát nguyện khắc bản ấn tống. Người biết tụng kinh niệm Phật làm lành và khuyên mọi người làm lành như thế mà bị yểu số thì thử hỏi có lợi ích gì?” Vị quan kia vẫn lôi Khai Nguyên đi như trước, nhưng người phía sau vẫn cố gắng hết sức níu kéo lại. Bấy giờ vị quan ấy bèn buông tay cho đi, người phía sau bèn dặn dò Khai Nguyên rằng: “Vị quan này bỏ đi nhưng chắc chắn sẽ quay lại, giờ Ta chỉ cho Ông đường đi đến Nam Hải, cầu cứu với Quán Âm Đại Sĩ.” Khai Nguyên lúc ấy tự nghĩ: “Mình bị té đi đứng khó khăn quá làm sao đến được Nam Hải đây?” thì bèn nghe người ấy nói: “Nếu Ông không thể đi được thì ngồi ngay thẳng, nhất tâm thành kính niệm Thánh hiệu Nam Mô A Mi Đà Phật và Đại từ Đại bi Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát. Ông hãy nghe ta dặn kỹ: Khi Ông nhìn thấy một người đẹp hoặc đáng yêu thì phải hết sức thận trọng, đừng để động tâm mà phải đọa vào ác thú.” Khai Nguyên vâng lời chỉ bảo thì tự cảm thấy thân mình nhẹ nhàng như chiếc lá gặp gió bay lượn giữa hư không. Chỉ trong chốc lát thì thấy mình đến một nơi đường hẻm có nhiều cô bán rượu, cô nào cũng tuyệt đẹp, đua nhau đến níu kéo Khai Nguyên. Nhớ kỹ lời dặn, lòng dặn lòng nên Khai Nguyên nhắm mắt không nhìn mặt họ thì tự nhiên không nhìn thấy họ đâu nữa. Vừa lúc ấy thì lại thấy ba đào nổi dậy, lượn sóng cao chọc trời, trước mắt Ông là biển cả mênh mông, Khai Nguyên thành kính quì xuống nơi bờ biển nhất tâm niệm Phật thì trong giây lâu thì thấy có hai, ba ông già râu tóc bạc phơ bắt một người đem xuống chân núi. Khi nhìn kỹ thì thấy người bị bắt ấy rất giống mình, lúc ấy lại nghe một tiếng nói từ phía sau: “Đấy là thần thức của ngươi”. Dứt lời thì thấy Bồ Tát hiện ra trước mắt, Khai Nguyên vội vàng đảnh lễ Bồ Tát, Bồ Tát bèn dẫn Khai Nguyên đi xem khắp chốn Âm ty, haI đường thiện ác, rồi lại dặn dò rằng: “Sau khi trở về dương thế, Ngươi hãy cố gắng giữ gìn, thấy sắc đừng động tâm và tính tấn niệm Phật tụng Kinh, đừng giải đải, tự thực hành như thế và cũng đừng quên khuyến hóa mọi người”. Khai Nguyên cúi đầu thành kính vâng lời thì tỉnh lại. Bấy giờ thân thể mạnh khỏe như trước, không còn đau nhức nữa, lập tức ngồi dậy mặc áo bước ra ngoài cửa. Mọi người lấy làm lạ nên hỏi nguyên nhân thì Khai Nguyên thuật lại đầu đuôi câu chuyện, nghe xong ai cũng đều cảm động và phát tâm thành kính quy hướng về Quán Âm Đại Sĩ. Khai Nguyên đương thời là một vị Quan võ quyền tước cao sang, dân chúng thấy Ông tu tập và khuyên răn người như thế, đều thành kính vâng lời làm theo. (Trích Nhơn quả Thập lục).
69. Triều nhà Thanh, có Tương Tâm Dư ở Duyên Sơn. Vào niên hiệu Càn Long, đêm 15 tháng 11 thì Ông nằm mộng thấy lính lệ cầm thiếp đến mời mình đi đến một chổ có cung điện nguy nga. Vừa đến nơi thì có một vị đại quan niềm nở tiếp đón. Tâm Dư thấy vị quan ấy phục sức nghiêm chỉnh nên trong ý cho là hàng vương giả. Đại quan ấy nói: “Chốn Minh Ty này nhiệm kỳ của Tôi đã mãn, Tôi sẽ đi nơi khác nên tòa vị này của Tôi xin Ngài thay thế.” Tâm Dư nghe xong thì nói: “Không được. Không được. Mẹ tôi đã già mà con trẻ còn thơ dại, công việc của Tôi cũng chưa xong nên Tôi không thể lãnh trách nhiệm này được.” Vị Đại quan nghe xong thì nói: “Sự việc ở thế gian, công việc muốn xong hay không là do mình, Tôi biết Ngài là người chánh trực nên mời đến đây, Ngài không nên từ khước.” Nghe đến đây thì Tâm Dư bổng giật mình thức giấc, ngọn đèn trong nhà còn sáng, nhưng tứ chi cảm thấy lạnh và đau buốt như mới từ trong băng tuyết đi ra. Tâm Dư lại rơi vào giấc ngủ, đến canh tư thì lại thấy mình đến Minh phủ, trên điện đường đã thiết lập sẳn năm tòa vị, án tiết, sổ bộ chồng chất lên như núi cao. Bốn tòa vị đã có người, chỉ tòa vị thứ năm là còn trống. Một vị quan vừa thấy Tâm Dư thì bèn nói: “Đây là tòa vị của Ngài, xin mời an tọa”. Tâm Dư không đồng ý ngồi xuống, nên đi sang nhìn các Tòa vị kia. Khi đến Tòa vị thứ ba khi nhìn kỹ thì thấy người đó không ai khác chính là thầy của mình là Phùng Tịnh Sơn Tiên Sinh, Tâm Dư vội đến trước, cúi đầu chào vái và thưa: “Xin Thầy vui lòng nói thay cho con, con xin được nghỉ.” Người ấy bèn nói: “Con đã đến đây rồi nên giờ hãy trở về dương thế để sắp xếp hậu sự. Hôm nay là ngày 15, ngày 20 con sẽ xuống lãnh trách nhiệm.” Nghe nói xong biết khó từ chối nên Tâm Dư liền bái biệt thì thứ giấc. Sáng ngày hôm sau, Tâm Dư đến nhà bạn là Vương Phương Bá để từ biệt để sau đó về nhà sắp đặt mọi thứ cho việc lâm chung. Vương Phương Bá nghe chuyện thì bảo: “Anh đừng sợ. Tôi có một phương cách nếu Anh thực hành thì họ sẽ không mời Anh nữa đâu. Phương pháp này rất dễ làm, đó là chỉ cần chí thành trì tụng Đại bi Thần chú của đức Quán Âm.” Tâm Dư vâng lời bạn, bèn mộc dục trai giới, thanh tịnh, kiến lập đàn tràng, tự mình khuyên bảo tất cả gia nhân nhất tâm trì tụng Thần chú Đại bi. Đến ngày 20, tất cả gia nhân vì sợ người Âm Ty đến bắt nên tất cả vây quanh nơi chổ của Tâm Dư và hết lòng trì tụng Đại Bi Chú. Sau lúc canh ba thì chính mắt Tâm Dư nhìn thấy từ nơi không trung có một chiếc kiệu bay xuống, có hai người khiêng kiệu và mấy người cầm cờ. Trong tâm, Dư biết đây là người đến rước. Bấy giờ, trong nhà gia nhân đều lớn tiếng đồng thanh chí thành trì tụng Đại Bi chú. Những người cầm cờ xí khiêng kiệu dần dần đến nơi nhưng rồi tất cả đều tan như sương khói. Đến sáng, Tâm Dư vẫn khỏe mạnh và không bịnh hoạn gì. Trải qua thời gian ba năm, Dư được triều đình tuyển vào Hàn Lâm Viện. Do nhân duyên này mà cả nhà Ông đều phát nguyện ăn chay niệm Phật, Trong nhà đều thờ Quán Âm Bồ tát, hàng ngày lễ bái cúng dường và trì tụng Đại bi Thần chú rất tinh tấn. (Trích Trần Triệu Liên kính thuật).
70. Nghi nhơn của Tỷ Bộ Viên ngoại cũng là Quan Đẩu Thất Soái ở xã Phụng Tân Bắc, tỉnh Giang Tây, là một nữ Phật tử thâm tín Tam bảo từ lúc nhỏ. Trong Dinh Bà thường thờ cúng Quán Thế Âm Bồ Tát rất trang nghiêm, thanh tịnh. Ngày ngày Nghi Nhơn đều lễ bái cúng dường và tụng kinh Phổ Môn. Lúc tuổi trên lục tuần, Bà bị bệnh chết, gia nhân thấy ngực còn ấm nên không nở tẩn liệm. Ba ngày sau thì Bà sống dậy và thuật lại câu chuyện sau: Khi vừa đến Minh phủ thì thấy Quán Âm Đại Sĩ đối trước Diêm Vương Bồ tát mà nói rằng: “Nhà vua không biết hay sao, phu nhân đây ở dương thế tụng kinh của Quán Âm Đại Sĩ rất chí thành, lại còn làm việc công đức là ấn tống kinh Phật rất nhiều. Nhà vua nên phóng thích người này về lại dương thế và thêm tuổi thọ nửa kỷ để Bà ấy tu trì cho công đức được viên mãn.” Diêm Vương tức thì rời chổ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Bồ tát, đoạn chấp tay thưa rằng: “Con xin vâng theo lời chỉ dạy”, nói rồi truyền lệnh cho người dẫn Nghi Nhơn trở lại hồi dương. Lúc mới đến Minh Phủ, Nghi Nhơn đã mục kích thấy nam lẫn nữ chịu thống khổ vì hình phạt rất nhiều, không thể nào nhớ hết được, chỉ lược lại một số cảnh như:
(1) Bầy chim xúm mổ mắt tội nhân, máu chảy linh láng, ướt khắp thân thể. Nghi Nhơn hỏi vị Minh Quan về tội nhân này thì được biết người này lúc sanh tiền làm hại sinh mạng loài phi cầm nên sau khi bỏ thân thì vào chốn này chịu khổ báo ấy.
(2) Vỏ ốc đổ đống như núi trong khi đó bọn quỷ xúm nhau róc thịt người để bỏ vào vỏ ốc. Nghi Nhơn lại hỏi thì Minh Quan cho biết người này lúc sanh tiền mua ốc mà ăn nên lúc bỏ báo thân thì đến đây thọ khổ báo.
Những sự việc trên là do nội tư của Lãnh Thị được nghe Nghi Nhơn thuật lại. Tỷ Bộ Viên Ngoại kiêm Quan Đẩu Thất Soái cùng với mẫu thân của Lãnh Thị đồng ở gần xóm, lại là họ hàng thân thích vì thế Lãnh Thị biết việc ấy rõ ràng. (Trích Ngô Lục Học ở Phiên Dương Kính Phật).
71. Thang Sính ở sông Lật Thủy, khi còn là thư sinh thì sống trong gia đình rất nghèo nàn thiếu hụt nhưng với mẫu thân thì chí hiếu không ai sánh bằng. Một ngày nọ Sính bị bệnh chết, sau đó thấy quỉ tốt đến cùng với vài người bắt đi. Trên đường đi bỗng gặp Quán Âm Đại Sĩ, Sính vui mừng khôn xiết bèn chạy đến bạch với Đại Sĩ cảnh mẹ già không ai phụng dưỡng và tỏ bày việc mong được sống lại. Đại Sĩ bèn nói với hai quỉ tốt: “Người này là một người con chí hiếu, các ngươi không được tự do bắt. Hơn nữa trước đây người này có một lần đi thuyền đến Nhu Cao thì trên thuyền có một thiếu nữ tuyệt đẹp nhưng tâm tính thích gần đàn ông nên ra vẻ cười cợt, và cố tâm lại gần quyến rũ người này trên thuyền. Nhưng người này đã nghiêm sắc mặt quở trách. Các ngươi phải biết chỉ một việc ấy thôi đã là một tiền trình để đạt được những điều lớn, nên mau mau hoàn hồn người này về dương thế.” Quỉ tốt bèn thưa: “Kính bạch Đại Sĩ, người này chết đã nhiều ngày, tử thi đã phân rã, bây giờ mà hồi dương thì làm sao được nữa.” Đại Sĩ lập tức bảo Thiện Tài Đồng Tử đi đến Tây Thiên lấy bùn Mâu ni đem về. Nhìn thấy vậy, hai quỉ tốt nói với hồn của Sính rằng: “Vì Bồ Tát thấy Ông gặp sắc mà không động tâm nên Ngài đến đây để cứu độ Ông, vậy Ông nên từ đây phát tâm thâm tín Phật pháp, siêng làm thiện sự. Ông nên biết nhân tâm ngày nay hiểm độc quá nhiều, quỉ thần dò xét rất nghiêm, mỗi mỗi đều ghi vào sổ bộ. Thế nhân ít có người hồi tâm hướng thiện, ai ai cũng đều chạy theo phú quí công danh, nhưng Ông phải biết con người mới sanh ra mọi việc đều đã định, những sổ bộ ghi chép các điều thiện ác của chư Thần nếu mau thì chỉ trong một tháng đã thọ báo, khỏi cần đợi đến kiếp sau mới có báo ứng.”
Thiện Tài Đồng tử đi ba ngày đến Tây Thiên mới đem bùn Mâu Ni về. Màu sắc bùn ấy như màu gỗ chiên đàn, mùi hương thơm ngào ngạt. Bồ Tát bảo Thiện tài cùng với hồn Sính về nhà thì quả nhiên tử thi đã mục rã. Lúc ấy hồn Sính nhìn thấy mẹ già bên cạnh đang giọt lệ tuôn rơi khóc than thảm xiết vì chết đã bảy ngày nhưng không biết lấy gì để tẩn liệm. Thiện Tài Đồng Tử liền đến bên cạnh tử thi, dùng bùn Mâu Ni trét vào ba lớp, mùi hôi thối chẳng mấy chốc dần dần bay mất, tử thi bắt đầu có sanh khí như người sống. Thiện Tài Đồng Tử bèn bảo hồn Sính, đi từ nơi miệng mà vào, tức thì tử thi bỗng sống lại, cựa động tay chân. Mẫu thân của Sính thấy vậy kinh hồn khiếp vía, la hét như người cuồng. Láng giềng nghe tiếng la kêu thất thanh nên vội vàng chạy đến thì thấy Sính đã ngồi dậy, quì gối bên Mẹ mà thưa: “Con được sống lại. Xin Mẹ đừng sợ!” Nói xong thì thuật lại duyên cớ cầu xin Bồ Tát gia hộ, cho sống lại để báo đáp thâm ân của Mẹ già và nhờ Quán Âm Bồ Tát cứu độ mà đựơc hồi sanh. Sính còn thuật lại những lời Đại Sĩ dạy bảo phải trì các giới, không tham lam, không dâm dật, không sát hại sanh mạng, không ăn mặn, không uống rượu và bảo rằng tương lai sẽ có công danh. Sính sau khi sống dậy thì vâng theo lời dạy của Bồ tát giữ nghiêm và thực hành các giới. Về sau quả nhiên vào niên hiệu Thuận Trị nhà Thanh, năm Mậu Ngũ, Sính thi đậu Tiến Sĩ nhưng với sắc tài, danh lợi xem như nước lã, không hề quan tâm. Mẹ con vẫn ở trong túp lều tranh, thờ tượng Phật, ngày ngày trường trai niệm Phật, tùy duyên làm mướn để nuôi Mẹ qua ngày. Đến lúc Mẹ Ông mãn phần thì có vị quan ở Tỉnh đem chuyện hiếu hạnh của Sính tâu lên triều đình, nhà Vua nghe xong thì hết lòng khen ngợi và hạ lệnh cho Sính đến Chơn Đình làm tri huyện. Sính không dám trái mệnh nên phải vâng lời đi nhậm chức, ngày thì lo việc quan đến chiều tối thì tụng Kinh lễ Phật, sống độc thân đến lúc già. Ngày cuối đời, Ông vẫn ở nơi huyện đường, an nhiên niệm Phật thệ thế. (Trích Từ Nhạc Vân Kiến lục).
72. Triều đại Bắc châu, có thầy Thích Huệ Cung ở chùa Chuẩn Đề tại Ích Châu cùng với vị tăng đồng học là Huệ Viễn kết thành huynh đệ. Về sau thầy Huệ Cung đi đến Kinh dương tham vấn Phật học rồi trở về. Trải qua ba mươi năm không gặp nhau nên hai thầy vui mừng cùng nhau đàm đạo. Thầy Huệ Viễn nói năng lưu loát như nước chảy còn thầy Huệ Cung thì không nói một lời nào. Thầy Huệ Viễn bèn hỏi: ‘Sư huynh không tụng được một bộ kinh nào hay sao?” Thầy Huệ Cung đáp: “Tôi chỉ tụng được quyển Quán Thế Âm Bồ Tát phổ môn phẩm mà thôi, Tôi xin tụng cho sư đệ nghe.” Thầy Huệ Viễn nghe xong thì nói: “Tưởng gì chứ Kinh Phổ Môn thì Tôi đã giảng mấy chục lần rồi.” Thầy Huệ Cung từ tốn nói: “Đành rằng Sư đệ thông suốt nghĩa lý và giảng giải nhiều lần nhưng chưa từng tụng, vậy nên hãy chí tâm lắng nghe.” Dứt lời, thầy Huệ Cung thiết lập đàn tràng, thăng tòa để tụng niệm. Khi vừa phát lên đề mục của Kinh thì bỗng có mùi hương thơm bay ngào ngạt, hồi lâu thì nghe trên không trung có tiếng nhạc trời vang lên, hoa trời rơi xuống đầy bàn hương án. Sau khi tụng xong bộ Kinh thì mới hết. Thầy Huệ Viễn nhìn thấy tự nghĩ: Mình trải qua mấy chục năm chuyên môn diễn giảng nhưng với việc tự tu thì chưa đạt điều gì, thật đúng như lời cổ đức đã dạy: “Người điếc mà trổi nhạc cho người khác nghe thì hoàn toàn không đắc ích”. Nghĩ đến đây thì bất giác quì xuống đảnh lễ xin sám hối tội lỗi khinh thường lúc nãy của mình với thầy Huệ Cung. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 2).
73. Triều nhà Tùy, niên hiệu Khải Hoàn năm đầu, có một vị Tăng tại Dương châu thường tụng kinh Niết bàn và thường khoe khoang việc mình làm. Dưới chân núi Đông Sơn, Kỳ Châu tỉnh Thiểm Tây có một vị Sa Di hàng ngày thường trì tụng Kinh Phổ Môn. Đến một ngày, cả hai người đều bạo tử và tự thấy mình đến chốn Minh phủ. Diêm Vương thiết lập bảo tọa bằng vàng thỉnh Sa Di lên ngồi rồi chí thành đảnh lễ, lại thiết lập bảo tọa bằng bạc rồi thỉnh vị Tăng tụng kinh Niết bàn lên an tọa và lễ bái qua loa. Vị Tăng này thấy vậy sanh tâm bất bình nên hỏi vị Sa Di hiện đang ở chổ nào. Sau đó cả hai người sống lại, vị Tăng bèn đi từ Dương Châu đến Kỳ Châu để tìm cho ra Sa Di tụng kinh Phổ Môn. Sau khi gặp được nhau, Vị Tăng hỏi vì sao Sa Di tụng kinh Phổ Môn được cung kính. Vị Sa Di thưa: “Kính bạch Thầy! Hằng ngày mỗi khi con tụng Kinh Phổ Môn, đều thành kính mặc tịnh y và đốt các thứ danh hương cúng dường Phật, rồi chí thành lễ bái, chú nguyện xong rồi mới đọc tụng. Con thực hành như vậy nhiều năm nay không sai một ngày nào, không dám có chút giải đãi.” Vị Tăng kia nghe xong thì sanh lòng hổ thẹn, tạ ơn Sa Di rồi nói rằng: “Tội lỗi của Tôi rất thâm trọng, ngày ngày tụng Kinh Niết Bàn, oai nghi không chỉnh tề, tam nghiệp không thanh tịnh, đến nay mới nghiệm rõ được việc này” (Trích Pháp Uyển Châu Lâm Tập).
74. Triều nhà Đường trong niên hiệu Trinh Quán, ở tại huyện Hòa Xuyên tỉnh Thiểm Tây, Vương Hoàng Chi có một người con gái gả cho một người tên Thôi Quỹ ở Bắc Lăng. Một ngày nọ, Quỹ bị bệnh rồi chết ở Hòa Xuyên, khoảng vài chục ngày sau thì nhà họ Vương nằm mộng thấy Thôi Quỹ đến nói rằng: “Con là Thôi Quỹ, đúng lý ra thì không nên lập bài vị thờ ở nhà vợ nhưng vì khổ nổi con không nơi nương tựa nên xin cha mẹ vui lòng để bài vị của con tạm nương tựa nơi đây thời gian ngắn, con xin đa tạ thâm ân cha mẹ và vợ con.” Vợ của Thôi Quỹ y theo lời khẩn cầu của người chồng quá cố, thiết lập bài vị thờ trong nhà, mai chiều đem đồ ăn uống cúng dường nhưng Thôi Quỹ lại hiện về cầu xin đừng cúng các thức ăn thịt cá, động vật, chỉ xin cho mình các thứ trai phẩm, lại khuyên răn mọi người trong nhà nên Lễ Phật, tụng Kinh và nói rõ các sự việc diễn ra trong địa ngục. Thôi Quỹ khuyến hóa mọi người rằng: “Ai cũng chỉ có một đời ngắn ngủi, ít có ai tránh khỏi sát sanh và bất hiếu, hai thứ tội ấy là nặng nhất còn các tội khác thì có phần nhẹ hơn. Về phần con, dù không tạo tội nhưng phải nhờ người khác làm phước để tương trợ cho giác linh nên cúi xin cha mẹ và vợ con thiết lập trai phẩm, cúng dường chư Tăng và nhờ chư Tăng tụng Kinh niệm Phật, bái sám cùng in ấn ba thứ kinh là Pháp Hoa, Kim Cang và Phổ Môn, mỗi thứ ba bộ. Từ nay về sau con sẽ không quay trở lại nữa”. Nhà họ Vương nhất nhất nghe theo lời của Thôi Quỹ thực hành. Sau khi làm lễ trai tăng và ấn tống Kinh xong thì đêm đó, Thôi Quỹ lại hiện về tạ ơn rồi nói: “Thưa Cha Mẹ, từ nay về sau, Thôi Quỹ xin từ biệt không còn lui tới nữa. Khi con qua đời có để lại đứa con trong bụng của vợ con, đứa trẻ giờ đã năm – sáu tháng tuổi, đứa trẻ này chắc chắn có danh vị, xin Mẹ của nó khéo léo nuôi dưỡng cho chu đáo.” Cả nhà nghe Thôi Quỹ nói ai cũng động lòng thương xót, từ ấy về sau Thôi Quỹ không hề trở lại nữa. (Trích Pháp Uyển Châu Lâm Tập).
75. Lưu Tử Cống ở tại Kinh Triệu, vào ngày 22 tháng 5 thì bị bệnh chết. Sáng ngày hôm sau, bỗng nhiên người nhà thấy Ông tỉnh lại, Ông thuật câu chuyện hồi dương của mình như sau: Lúc mới chết thì thấy quỉ tốt đến bắt dẫn đến Minh phủ, ở đó Tôi gặp người hàng xóm là Lý Vỹ. Thấy Tôi thì Lý Vỹ vui mừng nói rằng: “Nhờ Ông nói với con gái Tôi, bảo nó rằng Tôi trong lúc sanh tiền do tạo ác nghiệp nên bị bắt xuống đây, bảo nó mau mau vì tôi tạo tượng Quán Âm Bồ Tát và in kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì chắc chắn tôi được sanh thiên.” Tử Cống lại được gặp cha mình và Ông nói với Tử Cống: “Cha vì trong lúc sanh tiền, dùng đạn bắn chết các loài chim quá nhiều nên khi bỏ báo thân đọa vào chốn này thì hàng ngày bị ngục tốt đầu trâu mặt ngựa dùng vài ngàn viên đạn sắt nướng đỏ trong lửa nong vào da thịt cha, thủng vài trăm chổ, rồi lấy đạn sắt ấy để vào trong đó, sự đau đớn vô cùng thảm thê không sao chịu đựng nổi.” Tử Cống sống lại vào ngày 23 thì đến ngày 29 lại chết, sau đó vài ngày lại hồi sanh để khuyên mọi người trên thế gian cố gắng ăn chay niệm Phật, lánh dữ làm lành thì mới mong khỏi đọa vào chốn u đồ chịu nhiều thống khổ. (Trích Thái Bình Quảng Ký).
76. Triều nhà Tống, Phạm Văn Chánh Công Trọng Im là một vị đại thần trong triều. Mẫu thân Ông thệ thế đã hai mươi mốt ngày thì Ông thấy Mẹ hiện về trong giấc mộng, buồn khóc nói rằng: “Con ơi! Mẹ khi còn ở dương thế tạo nhiều ác nghiệp nên sau khi xả thân, đọa vào chốn Minh ty, bị hình phạt không sau tưởng được. Con là người chí hiếu nên hãy rước Thầy tụng kinh Kim Cang Bát Nhã một tạng để cứu độ cho Mẹ.” Trọng Im nghe Mẹ nói xong thì buồn khóc rồi tỉnh giấc. Lập tức Ông mộc dục trai giới thanh tịnh, đích thân đi đến Thiền Lâm ở non Nguyên Mộ, bái thỉnh chư Tăng về tư dinh rồi thiết lập đạo tràng tụng kinh bảy ngày bảy đêm. Đến đêm thứ sáu, việc tụng Kinh lễ bái sám sắp viên mãn thì Ông lại thấy Mẫu thân hiện về, hình dung vui vẻ, tươi cười bảo Ông: “Nhờ con chí thành thỉnh chư Tăng về nhà tụng Kinh bái sám siêu độ cho Mẹ và lúc chư Tăng tụng kinh thì con luôn thành kính lễ Phật cầu nguyện mà cảm đến Bạch Y Đại Sĩ đã giáng lâm phàm trần. Ngài có trì kinh nửa quyển nên chẳng những tội nghiệp của Mẹ đã được tiêu trừ lại còn được sanh về thiên giới. Việc này thế nào sáng ngày mai khi vào Kinh đường thì con sẽ rõ biết. Con nên sắm sửa lễ vật cho hậu để cúng dường nhằm báo đáp đại ân của Bồ Tát. Hôm sau, Chánh Công Trọng Im đợi đến lúc pháp sự viên mãn, sám lễ thành kính rồi kính thỉnh chư Tăng tề tựu để lễ tạ cúng dường. Sau khi cúng dường cho chư Tăng thì Chánh Công Trọng Im quỳ trước chư Tăng thành kính bạch rằng: “Con xin hỏi chư Thượng đức ở đây, Ngài nào tụng kinh nửa quyển thì xin cho con biết.” Chúng Tăng nghe nói thì ấy nhìn nhau thất sắc rồi đáp lại rằng: “Kinh điển của chúng tôi trì tụng một chữ không sai, không sót một câu thì đâu có việc trì tụng chỉ nửa quyển”. Bấy giờ có một vị Tăng thung dung thưa rằng: “Hôm rồi, lúc đại chúng tụng kinh, Sơn tăng này có đứng dựa cột tụng thầm đến phẩm thứ mười sáu (Kinh Kim Cang có ba mươi hai phần, phần thứ mười sáu là nửa quyển), thì lúc ấy Quan đại thần đến niệm Hương nên Sơn Tăng này trở về nhà trù để làm công việc. Nhân tiện Quan Đại thần hỏi thì Sơn tăng này xin thành thật nói lại cho Ngài biết. Vừa nghe xong thì Chánh Công Trọng Im quỳ xuống cúi đầu đảnh lễ, vị Tăng ấy bèn nói: “Mạc, Mạc” (Đừng! Đừng) rồi bay lên không trung biến mất. Lúc này Tăng cũng như Tục còn đang ngơ ngác thì Chánh Công Trọng Im đã kể lại giấc mộng tối qua, ai ai cũng sanh tâm cung kính chiêm ngưỡng lễ bái Đại Sĩ. Sau khi hoàn tất lễ cầu siêu cho thân mẫu, Chánh Công Trọng Im đã kiến tạo ngôi chùa lấy tên hiệu là Mạc, Mạc! Thiền Đường để ghi lại sự linh nghiệm của Quán Âm Bồ Tát giáng lâm phàm trần, tụng thầm nửa quyển kinh mà Mẹ mình được thoát khỏi chốn Minh đồ, lại được siêu sanh thiên giới. Ngôi đại già lam ấy đến nay vẫn còn. (Trích Linh Sơn Thắng Tích).
77. Phương Nham Tứ ở tại Huy Châu là một người siêng năng vun trồng phước đức. Vợ Ông là Huỳnh Thị bị chết vì tại nạn thai sản. Không bao lâu thì Phương Nham Tứ nằm mộng thấy vợ mình về nói rằng: “Lúc sanh tiền, Tôi tạo nhiều tội lổi nên khi xả thân, bị đoạ vào Minh Ty, chịu hình phạt rất khổ, vậy xin phu quân vì thiếp mà tụng kinh Phổ Môn một ngàn quyển và ấn tống Kinh này một ngàn quyển thì mới mong được thoát khổ siêu sanh.” Nham Tứ y theo lời vợ nói trong mộng mà làm theo. Không lâu sau thì người vợ kế có mang, đến lúc hạ sanh thì trong lúc đang mơ màng, nàng thấy người vợ chánh bước vào phòng, kế đó liền hạ sanh một bé trai, đặt tên là Nguyên Hạnh. Đứa bé ấy hình dung tuấn tú, mặt mũi sáng sủa, đẹp đẽ và dễ nuôi. Khi lớn lên thì học hành tấn phát, đậu đến Tiến Sĩ rồi ra làm quan rất vinh hiển. Do nhân duyên này mà Nham Tứ cùng với người vợ kế phát tâm kính tín Tam Bảo, trong nhà thờ cúng Quán Âm Đại Sĩ, hàng ngày lễ bái cúng dường và tụng Kinh Phổ Môn rất tinh tấn. (Trích Nam Hải Từ Thuyền).
78. Triều nhà Minh, thầy Thích Như Huyển có một người thân hữu là Hạ Tự Thời. Vị Phật tử cư sĩ ấy là người rất thông nội điển. Một ngày nọ, Thời nói với thầy Như Huyển rằng: “Môi Thầy trớt, răng lại hô, không phải là tướng của người thọ số, Thầy nên chí thành lễ bái Quán Âm Đại Sĩ, cầu đảo, nhất tâm xưng niệm Thánh hiệu của Ngài để cầu tăng tuổi thọ.” Thầy Như Huyển làm theo, thành kính chuyên niệm Thánh hiệu Quan Âm thì ba năm sau, dung mạo chuyển tướng, lại hưởng thọ cao niên. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 4).
79. Triều nhà Thanh, niên hiệu Đạo Quan năm thứ 12, Châu Triệu Cảnh ở Trường Châu có vợ là Trình Thị bị chứng bệnh gan nặng, trong lúc mê man thì bị quỉ nhập vào người, yêu cầu Triệu Cảnh khẩn thiết tụng Chú Đại Bi để nương nhờ công đức ấy mà được siêu độ. Triệu Cảnh bèn hỏi quỉ có oan gia túc trái gì với bệnh nhân không thì quỉ đáp: “Không.” Triệu Cảnh lại hỏi tiếp: “Bệnh nặng như thế này có nguy hiểm gì đến tánh mạng không?” Quỉ đáp: “Không sao, nhưng nên thành tâm niệm Phật thì bệnh có thể lành hẳn”. Qua năm sau vào tháng tám thì bệnh lại tái phát, hơn hai mươi ngày không ăn một hột cơm, chỉ uống nước cháo. Trong lúc bị bệnh hành hạ, Trình Thị vẫn chí tâm niệm Phật không gián đoạn, khi bị hôn mê thì thấy thần du cảnh giới Âm ty, Minh vương đang xét xử các tội nhân, thiện ác đều rõ ràng. Riêng Trình Thị vì trong lúc sanh tiền ăn trường trai, niệm Phật, lại đối với Bồ Tát vô cùng cung kính nên Minh Vương bảo người đưa về lại dương gian. Trước lúc đi có căn dặn: “Ngươi trở lại dương thế phải cố gắng tu trì như trước giờ và khuyên bảo mọi người thì công đức rất lớn, lúc mạng chung sẽ được sanh Tây phương không còn phải đến chốn này.” Trình Thị sau khi tỉnh dậy thì nói rõ việc mình đã thấy cho mọi người nghe. Triệu Cảnh nhờ người ghi lại và mướn thợ in ra giấy nhiều vô kể để phát cho mọi người, cùng khuyến khích mọi người cố gắng ăn chay, niệm Phật tụng kinh như Trình Thị. (Trích Minh Du Xác Ký).
80. Trịnh Gia Du ở Thái Cốc phát tâm muốn in kinh Phổ Môn, kinh Kim Cang cùng với Cảm Ứng Thiên nhưng chưa in được thì bị bệnh nặng, một chút nước cháo cũng không nuốt vào bụng được. Trong lúc hôn mê thì thấy thần thức đến nơi Minh giới, gặp được Đại Sĩ và Ngài khuyên rằng: “Tuổi thọ của ngươi đã hết lúc bốn mươi mốt tuổi nhưng nhờ công đức phát nguyện in ấn các Kinh, hôm nay sẽ được hồi dương. Ngươi nên mau chóng in ấn và lưu truyền thì công đức rất lớn và thọ số được miên trường.” Gia Du khi sống lại liền thực hành theo lời Bồ tát dạy thì bệnh tình quả nhiên lành hẳn. (Trích Khuyến giới loại sao).