1. Chúng ta niệm Phật là vì mong muốn điều gì? Mục đích của sự niệm Phật là gì?
Có một vị đồng tu niệm Phật suốt bốn ngày bốn đêm chẳng ngủ, niệm suốt ngày lẫn đêm. Sau đó, người ta hỏi vì sao có thể tinh tấn như vậy? Người đó nói: “Vì muốn cho hộ khẩu của con gái được dời đến Quảng Châu”. Những chuyện giống như vậy rất nhiều! Niệm Phật cầu thân thể khoẻ mạnh, cầu thăng quan phát tài, cầu phước báo thế gian; tốt hơn nữa là cầu khai ngộ, cầu công phu thành phiến, cầu nhất tâm bất loạn.
Chúng ta niệm Phật nhằm cầu việc gì? Ấn Quang Đại sư đã luận định một cách thẳng thừng: “Phàm tu tịnh nghiệp, phải lấy quyết chí cầu sanh Tây Phương làm mục đích chính”. Đạo lý căn bản của sự niệm Phật là mong người niệm Phật khởi sanh lòng tin, phát nguyện cầu sanh Tây Phương, liễu thoát sanh tử. Đừng chỉ cầu sự giàu sang vui sướng ở thế gian, mà không cầu sanh Tây Phương. Khi nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương, cũng có thể tiêu diệt tai nạn thế gian. Chẳng phải là niệm Phật không thể tiêu diệt tai nạn đâu nhé!”Niệm Phật phải lấy “mong cầu vãng sanh”làm mục đích chính. Nhiều người niệm Phật suốt cả đời, nhưng vẫn u mê, mù mờ. Hôm nay, chúng ta sẽ đọc lời dạy của Ấn Quang Đại sư để giải quyết vấn đề này.
Nay chỉ đối với người niệm Phật ở nơi Sự, phân làm ba hạng:
Hạng thứ nhất: Lòng tin chân thật thiết tha, chân chân thật thật, nhất tâm niệm Phật.
Tuy cùng mặc áo, ăn cơm, làm việc, buôn bán bình thường nhưng chỉ tin một việc này, đi cũng A Di Đà, ngồi cũng A Di Đà, dù bận rộn như tên bắn cũng không rời A Di Đà, tinh tấn chẳng lùi. Hôm nay cũng như thế, ngày mai cũng như thế, năm nay cũng như thế, năm sau cũng như thế.
Hạng người này, Đức Phật nhất định hộ niệm, lúc mạng chung người ấy nhất định vãng sanh thế giới Cực Lạc.
Hạng thứ hai: Hoặc tâm không chuyên nhất, họ cũng biết sự lợi ích của niệm Phật nhưng tục niệm nặng nề, chánh niệm, cạn mỏng, vừa mới niệm Phật thì trong tâm lại nghĩ việc khác, một nóng mười lạnh, niệm một ngày lại bỏ mười ngày.
Niệm Phật giống như hạng người này, dù niệm đến già cũng không được gì, chẳng qua chỉ là gieo trồng căn lành mà thôi. Đời sau có duyên chạm đến điểm căn lành này thì bắt đầu mới chân thật tu hành một phen mới mong có được thành tựu.
Hạng thứ ba: Miệng niệm, tâm không niệm. Người này vốn chẳng biết sự lợi ích của niệm Phật mà chỉ hâm mộ danh tu hành. Hôm nay ở trong hội Phật này đi theo một người niệm một ngày, ngày mai ở trong hội Phật kia đi theo người niệm một ngày, tuy là có danh niệm Phật một ngày nhưng kỳ thật chỉ là qua suông. Thời gian nói chuyện phiếm thì nhiều, thời giờ niệm Phật thì ít. Ở trong Phật đường vốn đã có tham sân si ái, ra khỏi Phật đường tất tránh không khỏi việc tham sân si ái.
Người này so với hạng thứ hai kém hơn nhiều. Ba hạng người nói trên, hạng thứ nhất rất ít, hạng thứ ba cũng không nhiều lắm, chỉ có hạng thứ hai mọi người dễ phạm vào. Do chúng sanh cõi Ta Bà bị vật dục che lấp, vọng niệm khó trừ cho nên mới như thế.
Ấn Quang Đại sư quy định không vượt qua hai mươi người, vậy là đúng rồi. Đó là đạo tràng tu hành thực sự của chúng ta. Cho nên xây dựng đạo tràng mà xây lớn thì lòng người thay đổi, vốn vẫn còn một chút đạo tâm. Đạo tràng khi lớn lên rồi, đạo tâm đó liền trở thành tâm danh lợi. Bây giờ đạo là gì? Tiền là đạo, danh lợi là đạo. Họ đi trên con đường danh lợi, đạo đó chính là đạo ngạ quỷ, đạo súc sanh, đạo địa ngục. Họ là kiểu đạo tràng đó, chúng ta phải hiểu cho rõ ràng. Còn nữa đạo tràng lớn quá, xây dựng huy hoàng quá, rất nhiều người phát tâm đến đó để xuất gia. Mục đích xuất gia ở đâu? Đi hưởng phước. Thế gian này cuộc sống khổ quá. Phòng ốc lớn như vậy ở thì thoải mái biết bao! Họ không phải là vì tu hành, họ vì hưởng phước, vì tạo nghiệp, còn có những tâm không tốt, tương lai muốn chiếm lấy đạo tràng này, đạo tràng đấu tranh, tranh danh đoạt lợi, sự việc này lúc tôi còn trẻ đã thấy qua rồi. Thời đó ở Đài Loan tôi thường đi ra ngoài giảng kinh, có một chùa nọ mời tôi giảng kinh. Tôi ở đó giảng khoảng nửa tháng, cảm thấy không đúng lắm, đạo tràng này mới xây dựng là đạo tràng của nữ chúng, người xuất gia ở trong đó tôi cũng quen biết, rất quen thân với tôi, cho nên họ đến mời tôi giảng kinh, giảng nửa tháng sau trong họ cãi vả nhau. Cãi vã những gì? Phân phối chức vụ không đồng đều. Bởi vì xây đạo tràng, những đồ đệ nhỏ hơn vị tỳ kheo ni lớn tuổi, ra ngoài hóa duyên, hóa duyên đương nhiên có người hóa duyên được nhiều, có người hóa duyên được ít, khi trở về, người hóa duyên được nhiều họ tranh thủ, họ muốn làm quản lý, họ muốn làm duy na, muốn làm tri khách, muốn giành những điều này. Lúc giành còn đánh nhau. Tôi về đến Đài Trung đem sự việc này nói với thầy giáo, thầy giáo nói, thôi được rồi, đừng đi nữa. Tôi nói, kinh còn chưa giảng xong. Không sao, kinh giảng chưa xong cũng là việc thường thấy thôi. Chỉ cần đạo tràng không như pháp thì nhanh chóng rời đi. Tôi liền đi khỏi. Bộ kinh đó tôi giảng được khoảng một phần ba. Chúng ta tin rằng hiện tại đạo tràng phần lớn đều là tình hình như vậy. Họ không phải đang làm việc đạo, đấu đá lẫn nhau, tranh quyền đoạt lợi, lừa gạt tín đồ, lừa gạt Phật Bồ Tát. Quí vị nói xem có nguy quá không? Cho nên Tịnh nghiệp tam phước sau khi phát tâm bồ đề phải nhanh chóng tin sâu nhân quả. Họ không tin nhân quả. Họ tin nhân quả thì sẽ giống như tôi vậy rồi, không dám xây đạo tràng. Vì sao vậy? Bởi vì chúng ta nghĩ đến 20 người sống cùng nhau, cũng sẽ tranh danh đoạt lợi. Vậy thì phiền phức lớn lắm! Bản thân được thanh tịnh vẫn là học theo Phật Thích Ca Mâu Ni là tốt, sống được thanh tịnh, không quản việc gì. Cho nên các đồng học phải nhớ kỹ, tôi một đời chưa từng ngửa tay xin người khác tiền bao giờ, tự động đưa đến cúng dường.
Thực sự hiểu được nghiệp nhân quả báo, không dám làm việc xấu, nhân sinh khổ đoản, mấy mươi năm cái khảy móng tay đã qua mất rồi, tạo tác những ác nghiệp này tương lai phải chịu khổ báo là điều không đáng. Quí vị thực sự hiểu rồi, thực sự rõ ràng rồi, không những việc ác không dám làm, ác niệm cũng không sanh khởi. Khởi ý niệm vì sao không niệm Phật A Di Đà? Phật A Di Đà phước báo vô lượng. Quí vị niệm ngũ dục lục trần là tội nghiệp vô lượng, sự việc như vậy làm sao mà dám làm được? Chúng ta phải học pháp sư Ấn Quang, pháp sư Ấn Quang mỗi ngày đem chữ tử đội trước trán, Ngài đóng cửa, mỗi ngày lạy Phật, niệm Phật. Ngẩng đầu nhìn thấy chữ tử rất lớn. Núi Linh Nham tôi đã từng thấy phòng nhập thất của Ngài, một cái bàn vuông thờ một tượng Phật nhỏ. Tượng Phật A Di Đà, phía sau viết một chữ lớn, ngày ngày nghĩ đến việc ta sắp chết rồi, lúc này quí vị nghĩ xem mình nên làm những việc gì? Còn có những vướng bận sao? Còn có những âu lo gì sao? Thực sự vạn duyên buông bỏ, Phật hiệu đó liền đắc lực thôi. Phật hiệu đó là chánh định tụ.
Người có thiện căn chín muồi, 1 câu A Di Đà Phật niệm đến cùng, kiểu người giống như ngài Hải Hiền, 1 đời là có thể thành tựu viên mãn.
Pháp sư Ấn Chí chùa Phật Lai mong tôi trong lúc giảng kinh, hãy tuyên bố với mọi người 1 chuyện.
Thứ nhất, chùa Phật Lai vì để kế thừa 1 cách triệt để gia phong của hải hiền lão hòa thượng sau này, ko ai được ngủ lại chùa tức là cái miếu nhỏ này không đón tiếp người xuất gia hoặc người tại gia, không đón tiếp người đến nơi đó ngủ lại 1 đêm hay 2 đêm, về điểm này hy vọng đồng học chúng ta nhớ kỹ, đến nơi đó thăm viếng có thể được. đừng nên làm phiền họ
Thứ hai, nếu có đến chùa để chiêm ngưỡng thánh tích, xem thử tháp của lão hòa thượng, hay xem nhục thân của pháp sư Hải Khánh, tự viện hoan hỷ, nhưng họ sẽ ko tiếp nhận cúng dường tiền bạc, cái miếu nhỏ này sẽ tự duy trì truyền thống của mình. Tự mình trồng trọt duy trì nguồn lương thực của họ, đây là truyền thống được hun đúc. Bởi sự lao động suốt 92 năm của lão hòa thượng Hải Hiền, hy vọng gia phong này được gìn giữ, điều này rất khó được, chân thật là nông tịnh song tu.
Thứ ba, nếu có phát tâm in đĩa, hoặc giả là ấn tặng kinh sách, thầy ấy nói, hãy tự mình làm lấy là được, đừng gửi tiền đến chùa, đừng quấy rầy đến người xuất gia của chùa Phật Lai, cái miếu nhỏ này, người xuất gia không nhiều, hãy để họ 1 lòng niệm Phật, không có chuyện gì khiến họ phải bận lòng.
Việc thứ ba: thuận tiện, ở đây muốn tuyên bố với các vị. Chúng ta có lòng tốt muốn giúp đỡ họ, đạo phong của chùa Phật Lai chính là 1 câu A Di Đà Phật niệm đến cùng, những chuyện khác không cần phải tranh luận. Người khác tranh luận là chuyện của họ, hiện nay là thời dân chủ tự do mở cửa, tự do ngôn luận, tự do xuất bản, chúng ta không có quyền can thiệp, họ tranh ta không tranh, họ phê bình ta không phê bình.
Chúng ta thấy người thì cung kính tán than, nếu muốn Phật pháp hưng, chỉ có tăng khen tang, ca ngợi lẫn nhau Phật pháp liền hưng vượng, tuyệt đối không tham gia vào các cuộc tranh luận, hy vọng đồng học chúng ta bắt đầu làm từ chính mìnhta không cần cầu đến người khác bản thân mình nên làm như vậy, thế mới đúng!
Có người vì muốn tụng Kinh, lễ Phật nên thường đến chùa.
Có người vì muốn cầu nguyện cho gia đạo bình an nên đến chùa.
Có người vì muốn cầu công danh, cầu phú quý, cầu công chuyện làm ăn được suông sẻ, nên đến chùa.
Có người vì muốn cầu tình duyên, hy vọng gặp được người vừa lòng hợp ý để gắng kết trăm năm, nên đi chùa.
Có người vì muốn tìm kiếm cho mình chút an tịnh, chút bình an trong tâm hồn, nên đi chùa.
Có người vì muốn tu chút phước qua việc làm công quả, nên đi chùa.
Cũng có người vì muốn xin xăm, bóc quẻ để coi xem mình có tốt không, nên đi chùa.
Cũng có người chỉ đơn thuần là để được ăn chè xôi, hoặc đồ chay, nên đi chùa. Cũng có người vì được bạn bè rủ rê nên vì ham vui mà đi chùa.
Tuy mục đích mỗi người khác nhau, nhưng tựu chung vẫn là vì công danh phú quý, vì tự tư tự lợi mà đến chùa. Những mục đích này đều chẳng xấu, chẳng sai, nhưng đây chưa phải là mục đích chánh yếu và đích thực cần có của một người khi đến chùa. Đây là lý do mà mặc dù có người đi chùa rất nhiều năm, thậm chí cả đời, nhưng trong lòng vẫn đầy dẫy những phiền não, lo âu và khổ đau, họ không biết cách nào để có thể thoát ra khỏi những cái vòng lẫn quẫn này. Nhiều khi càng đi chùa chừng nào thì trong lòng càng bực bội, phiền muộn nhiều chừng đó. Hoặc cũng có người làm công quả lâu năm trong chùa, phước kiếm được đó có được bao nhiêu nhiều hay ít vẫn chưa biết, nhưng tính tình thì ngày càng khó khăn hơn, hà khắc hơn.
Vậy mục đích chánh yếu của việc đi chùa là gì? Chỉ gói gọn trong bốn chữ "Đi chùa cầu Đạo". Khi đến chùa, trước là để lễ kính chư Phật, Bồ Tát, sau là tìm thầy hỏi Đạo để tìm ra con đường tu hành đúng đắn phù hợp với đạo lý, để khi về ứng dụng vào đời sống tu hành, nhằm tăng trưởng trí tuệ và hạt giống từ bi, tránh được những mê tính không đáng có trong đạo Phật. Công đức của việc đi chùa là từ đây mà có được.
Tuy rằng việc đi chùa để cầu danh lợi, cầu công danh phú quý, cầu bình an trường thọ là không xấu, nhưng phải cẩn thận với những mục đích này. Vì sao? Vì rất dễ tạo tội nghiệp. Tội nghiệp gì vậy? Đó là tội phỉ báng Phật, Bồ Tát. Hằng ngày anh đem vài vật phẩm đến chùa cúng dường đó, nhưng lại mong muốn Phật, Bồ Tát sau khi dùng xong thì phải phù hộ cho những ước nguyện của anh được như ý. Đây chẳng khác nào anh đem Phật, Bồ Tát biến thành tham quan mất rồi, chuyên đi nhận đồ hối lộ của tín chúng. Cũng có người đem vật phẩm đến cúng dường được vài ba lần, nhưng lại chẳng thấy những ước nguyện của mình được như ý, thì liền trở mặt, cho là Phật, Bồ Tát không linh, đã nhận đồ cúng dường của họ rồi mà chẳng chịu phù hộ cho họ, rồi thì không tiếp tục đến chùa nữa. Tội lỗi là do đây mà ra.
Chúng ta là những người Phật tử, là những đứa con trong gia đình Như Lai, thì cần phải có cái nhìn chân chánh đối với mục đích của việc đi chùa, để không tạo ra những thông lệ, những mê tín không lành mạnh, để tránh những hiểu lầm của những người xung quanh đối với việc đi chùa. Để việc đi chùa trở nên có ý nghĩa hơn, và cao đẹp hơn.
A Di Đà Phật! Người không biết đủ thì dù cho vàng bạc đầy nhà thì vẫn là người nghèo, vì họ không biết trân quý những gì đang có trong tay họ, tâm họ luôn mong cầu, vọng ra bên ngoài những vàng bạc của thế gian, nên tuy họ giàu nhưng vẫn nghèo. Còn người luôn biết đủ, thì dù họ nghèo nhưng vẫn giàu, vì họ biết trân trọng những gì có trong tay, họ không mơ mộng hão huyền về những cái không thuộc của họ, tâm họ không vọng cầu ra bên ngoài về những tiền tài của thế gian.
2. Trích pháp ngữ trong Ấn Quang Văn Sao.
Đức Phật mở ra pháp môn Niệm Phật là chỉ mong hết thảy chúng sanh vãng sanh Tịnh độ ngay trong một đời này. Nếu Như Lai không mở ra pháp này, thì chúng sanh đời Mạt Pháp chẳng ai có thể liễu sanh tử.
Phải biết Phật pháp có vô lượng pháp môn, nếu nghiệp lực phàm phu muốn liễu sanh thoát tử ngay trong đời này, ngoài pháp môn “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương”, đức Phật cũng không nói ra được pháp môn thứ hai nào cả.
Người ở ngoài cuộc phần đông là cầu khai ngộ, cầu được các thứ cảnh giới, mà chẳng chú trọng quyết định cầu sanh Tịnh độ. Đó gọi là “bỏ gốc chạy theo ngọn”.
Nếu có ý niệm mong cầu sanh cõi trời, cõi người, thì Tây Phương sẽ chẳng có phần của mình. Vì tâm sanh tử quá quen thuộc, một sức lực bé tí có thể chống cự nổi sức mạnh ngàn cân của sanh tử hay sao?
Nếu không cầu sanh Tây Phương, chỉ cầu tiêu tai và cầu chẳng mất thân người. Làm vậy cũng giống như dùng một hạt châu Ma ni vô giá để đổi lấy viên kẹo. Người ấy là kẻ ngu si, đáng thương, hoàn toàn chẳng biết tốt xấu!
Pháp Niệm Phật này là một đại pháp môn để đức Phật phổ độ hết thảy chúng sanh. Khi gặp nguy hiểm, niệm Phật gặp hung liền được hóa cát. Niệm Phật lúc vô sự có thể tiêu tai, tăng phước; nhưng nhất định là phải cầu sanh Tây Phương mới là lợi ích to lớn rốt ráo.
Niệm Phật nếu không cầu sanh Tây Phương, dù sanh đến cõi trời Phi Phi Tưởng tôn quý nhất, đến khi phước trời đã hết, vẫn phải luân hồi trong lục đạo trở lại. Nếu chí thành khẩn thiết niệm Phật, dù sắp đọa địa ngục A Tỳ, cũng có thể nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương.
Ngày nay nạn kiếp trước mắt, mọi người đều nên nỗ lực niệm Phật cầu sanh Tây Phương, đừng cầu phước báo nhân thiên đời sau. Dù đạt được phước báo, cũng chỉ là tạm thời. Phước lớn sẽ tạo nghiệp lớn! Đã tạo nghiệp lớn, ắt chịu khổ lớn. Nếu sanh về Tây Phương, sẽ vĩnh viễn xa lìa các thứ khổ, chỉ hưởng các niềm vui.
Nếu có một niệm cầu phước báo trời người trong đời sau, dù có tu trì tinh thuần, vẫn gọi là “trái nghịch lời Phật dạy”. Tuy có trồng thiện căn, nhưng liễu sanh thoát tử sẽ xảy ra vào năm con lừa, đáng thương biết mấy!
Phật dạy chúng ta niệm Phật cầu sanh Tây Phương là nhằm làm cho chúng ta liễu sanh thoát tử ngay trong đời này. Nếu mong cầu phước báo trời người đời sau, chính là trái nghịch lời Phật dạy. Như đem một hạt châu báu vô giá để đổi lấy một viên kẹo, có đáng tiếc hay không? Người ngu niệm Phật chẳng cầu sanh Tây Phương mà cầu phước báo trời người đời sau, chẳng khác gì ví dụ hạt châu vô giá trên.
Pháp môn Tịnh độ, dùng “chân tín thiết nguyện niệm Phật, quyết định cầu sanh Tây Phương”làm tông chỉ. Nếu người niệm Phật chẳng nguyện cầu sanh Tây Phương, tức là trái nghịch lời Phật dạy. Ví như vương tử ở nhờ nước khác, chẳng tin chính mình là vương tử, chỉ nguyện cả đời khất thực, chẳng đến nỗi chết đói bèn mãn nguyện. Tri kiến thấp hèn đó có thể làm cho người ta không thương xót hay sao?
Phải khởi lòng tin, phát nguyện, cầu sanh Tây Phương, ngàn vạn lần chẳng thể cầu phước báo đời sau. Nếu cầu phước báo đời sau, chính là phá giới, trái nghịch pháp! Vì pháp môn Niệm Phật là pháp môn dạy người cầu sanh Tây Phương. Quý vị đã niệm Phật mà chẳng cầu sanh Tây Phương, lại cầu phước đời sau, tức là đã chẳng tuân theo lời Phật dạy. Đó là pháp mà Phật dạy người ta phải tuân theo, quý vị chẳng chịu tuân theo; do đó, quý vị đã “phá giới, trái nghịch pháp”.
Muốn sanh Tịnh độ, trước tiên, phải nhận thức rõ ràng tông chỉ. Trong sự tu trì phổ thông, chẳng có ai không muốn khai ngộ. Nhưng chuyện khai ngộ không phải là chuyện dễ. Nếu biết tông chỉ của Tịnh độ, tuyệt chẳng dự định kỳ hạn khai ngộ. Nếu không chú trọng tín nguyện, dù khai ngộ vẫn khó liễu thoát. Nếu có thể nhất tâm niệm Phật, chẳng khai ngộ cũng có thể vãng sanh.
Thật sự có thể niệm Phật, chẳng cầu phước báo thế gian, thế mà tự nhiên đạt được phước báo thế gian (như trường thọ, chẳng bịnh, gia tộc thanh thái, con cháu phát đạt, các duyên như ý, vạn sự cát tường…) Nếu cầu phước báo thế gian, không chịu hồi hướng vãng sanh, phước báo thế gian có được sẽ lại thấp hèn. Tâm không chuyên nhất thì khó quyết định vãng sanh được!
Phải nên phát tâm quyết định, lâm chung nhất định cầu vãng sanh Tây Phương. Đừng nói là chẳng mong cầu thân người hèn hạ tầm thường, dù cho thân vua trong cõi trời người, và thân người xuất gia cao tăng, nghe một hiểu ngàn, được đại tổng trì, đại hoằng pháp hóa, rộng độ chúng sanh, đều coi như sự độc hại, tội ác to lớn, tuyệt chẳng sanh một niệm muốn thọ thân ấy. Quyết tâm như vậy thì tín nguyện hạnh của chính mình mới có thể cảm được Phật. Thệ nguyện của Phật mới có thể nhiếp thọ, cảm ứng đạo giao, mong Phật tiếp dẫn, thẳng lên chín phẩm, vĩnh viễn thoát lìa luân hồi.
Pháp môn Tịnh độ chú trọng ở Tín và Nguyện. Người chẳng biết điều ấy, chỉ cầu phước báo nhân thiên, hoặc cầu đời sau làm Tăng, hoằng dương Phật pháp, độ thoát chúng sanh. Phải bỏ hết những tâm niệm như vậy; nếu còn mảy may nào, sẽ chẳng thể vãng sanh! Một khi vãng sanh, bèn siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nếu không vãng sanh, dù cho một đời, hoặc hai đời không mê, tuyệt đối khó thể vĩnh viễn không mê. Khi mê, do phước đã tu trì được, sẽ tạo nghiệp to lớn, rất đáng sợ. Đã tạo ác nghiệp, ác báo tự nhiên dồn đến, cầu mong thoát khỏi tam đồ, sợ là chẳng bao giờ được!
Một pháp Niệm Phật quan trọng ở chỗ phải có chân tín, thiết nguyện. Có chân tín, thiết nguyện, dù chưa đắc nhất tâm bất loạn, cũng có thể nương vào từ lực của Phật để đới nghiệp vãng sanh. Nếu chẳng có tín nguyện, dù cho tâm không vọng niệm, vẫn chỉ là phước báo nhân thiên vì chẳng tương ứng với Phật. Do vậy, phải chú trọng nơi tín nguyện cầu sanh Tây Phương.
Chỉ biết niệm Phật mà chẳng sanh khởi tín tâm, phát nguyện, dù đắc nhất tâm, cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu có đủ chân tín, thiết nguyện, tuy chưa đạt tới nhất tâm bất loạn, cũng có thể nương vào từ lực của Phật để vãng sanh.
Dù có thể chấp trì danh hiệu, nhưng vì không cầu thoát ly, bèn thành nhân quả trời người, thọ hưởng si phước. Do phước tạo nghiệp, nên sẽ chìm đắm trong ác đạo.
Những đoạn pháp ngữ nêu trên được trích lục từ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao. Mỗi chữ trong lời khai thị của Ấn Tổ đều là bến bờ trong đời Mạt Pháp. Lời nào cũng là tấm gương quý báu cho người tu Liên Tông. Lão nhân gia tự khiêm tốn nói:
“Văn Sao của Ấn Quang, lời văn tuy chất phác, mộc mạc, những gì nói trong đó đều là lời của Phật, Tổ. Chẳng qua là lấy những ý đó của Phật, Tổ rồi tùy cơ nghi để nói, chứ đâu phải do Ấn Quang tự ý bịa chuyện? Ấn Quang chỉ chuyển đạt lời nói làm cho kẻ sơ cơ dễ hiểu. Tuy vì sơ cơ, nhưng nếu hành đến mức cùng cực, cũng không thể bỏ những điều ấy mà tu cách khác. Vì một pháp Tịnh độ là pháp triệt trên thấu dưới”. Học thức của Ấn Quang nông cạn, chẳng phát huy điều gì to lớn, nhưng nếu có thể làm theo đó (chỉ lời dạy trong Văn Sao), quyết định có ích, chứ không tổn hại. Chắc chắn là có thể liễu sanh tử ngay trong đời này, sau khi vãng sanh, được hầu một bên đức Phật Di Đà”.
Ấn Quang Đại sư có một đoạn khai thị kinh điển như sau, chúng ta nên ghi nhớ: “Đức Phật chỉ muốn chúng sanh siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nhưng căn cơ của chúng sanh chẳng đồng, tâm nguyện mỗi người khác nhau. Có chúng sanh cầu phước, cầu thọ, cầu tài, cầu con…, chỉ cần do tâm thành mà cầu, có cầu ắt ứng. Đó tuy là pháp thế gian, nhưng tiếp dẫn hạ căn, dần dần gieo thiện căn, đều được mãn nguyện. Nếu luận theo bổn ý của Phật, đức Phật chỉ muốn chúng sanh nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, nương nhờ từ lực của Phật lâm chung tiếp dẫn, vãng sanh Tây
Phương. Khi được vãng sanh, bèn thoát khỏi nỗi khổ luân hồi trong tam giới. Dần dần tiến lên cho đến khi thành Phật. Đó mới là thật nghĩa rốt ráo của sự niệm Phật”
3. Lúc khởi đầu, có một số người bị lay động, tín tâm đối với Tịnh độ bị lay động.
Đúng ra, phải nói là tín tâm nguyên thủy của chúng ta đối với Tịnh độ vốn chẳng kiên cố. Chẳng phải là người khác muốn lay động chúng ta, mà là tín tâm của chúng ta đối với A Di Đà Phật quá mỏng manh! Do vậy, gió thổi nhẹ bèn lung lay, gió thổi mạnh, bèn ngả rạp xuống. Chư vị có nhớ hay không, trong Tịnh độ Đại Kinh Khoa Chú tập một trăm lẻ ba, sư phụ thượng nhân đã có nói: “Chúng ta ở đây học Giới Luật, Giới Luật thuộc trong phạm vi của câu Phật hiệu, chẳng ở ngoài câu Phật hiệu”.
Vì muốn kiên định lòng tin của chúng ta đối với pháp môn Tịnh độ, nên Thiện Đạo Đại sư trong Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ có nói: “Dù mười phương chư Phật, tận hư không, trọn khắp pháp giới, hiện thân phóng quang, khuyên chúng ta bỏ Tịnh độ, rồi sẽ dạy diệu pháp thù thắng cho chúng ta, chúng ta cũng chẳng chấp nhận”. Đây là lời dạy thấu tận tim gan của tổ sư, đối với chúng ta, thật đúng như câu nói “hận luyện sắt không thành gang”, bi tâm khẩn thiết.
Trong Văn Sao, Ấn Quang Đại sư đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại, và nhấn mạnh:
“Trong đời Mạt Pháp, muốn liễu sanh thoát tử ngay trong đời này chỉ có một pháp môn Tịnh độ mà thôi. Đây là con đường sống sót duy nhất của chúng ta”. Và Hành Sách Đại sư có nói:
“Nếu không chuyên niệm đức Phật đó (chỉ A Di Đà Phật), cầu sanh nước ấy (chỉ Cực Lạc thế giới), ắt sẽ tùy theo nghiệp mà lưu chuyển, chịu khổ vô lượng”.
Ngẫu Ích Đại sư cũng đã nói hai câu mà chưa từng có ai nói qua:
“Tùy thuận lời dạy dỗ chân thật của chư Phật, quyết chí cầu sanh, càng không có nghi hoặc”.
Khi Ngẫu Ích Đại sư năm mươi tuổi, Ngài nói với đệ tử của Ngài là pháp sư Thành Thời: “Đến lúc về già, tôi niệm niệm đều muốn khôi phục tỳ kheo giới pháp; gần đây, niệm niệm cầu sanh Tịnh độ”. Pháp sư Thành Thời lúc đó không hiểu, sau này mới biết ý của Đại sư Ngẫu Ích là: “Chỉ có sau khi tôi vãng sanh về Cực Lạc thế giới, nhờ bổn nguyện oai thần của A Di Đà Phật gia trì, tôi mới có khả năng trở về đây khôi phục giới pháp. Ở thế giới Ta bà này, thấy người xuất gia không giữ giới luật, thật sự là tâm có thừa mà sức không đủ. Do vậy, một lòng hướng về Tây!”Tổ sư một lòng hướng về Tây đáng khiến cho chúng ta suy nghĩ. Đoạn này trích từ sách Ngẫu Ích Đại Sư Niên Phổ do Hoằng Nhất Đại sư soạn.
Hoằng Nhất Đại sư là bậc đại đức trong Luật Tông. Lão pháp sư Đàm Hư đã từng mời Ngài đến chùa Trạm Sơn ở Thanh Đảo dạy giới luật. Hoằng Nhất Đại sư trụ ở đó khoảng nửa năm, lúc gần ra đi, nói với đại chúng lời khai thị cuối cùng. Ngài cứ nhắc đi nhắc lại, khuyên mọi người niệm Phật. Tứ chúng đệ tử tiễn đưa Đại sư đến chân núi, Ngài nói có hai câu tặng cho đại chúng. Ngài lấy ra một miếng giấy nhỏ, trên đó viết tám chữ: “Thừa thử thời cơ, tối hảo niệm Phật”(Nhân thời cơ này, tốt nhất là niệm Phật). Chuyện này được ghi trong cuốn Ảnh Trần Hồi Ức Lục, rất cảm động!
Lão hòa thượng Hải Hiền thường nói: “Lão Phật Gia (A Di Đà Phật) là gốc rễ (căn) của vị hòa thượng già như tôi!”Câu này có ý nghĩa gì? “Căn”là mạng căn. Chúng ta dùng một câu của Ấn Quang Đại sư để giải thích cho dễ hiểu hơn: “Dùng một câu Phật hiệu này làm bổn mạng nguyên thần, phát lời thề cầu vãng sanh. Dù lấy cái chết bức bách làm cho mình thay đổi cũng không được!”Đó là ý nghĩa của chữ “căn”, A Di Đà Phật là mạng căn của chúng ta.
Chúng ta hãy xem Liên Trì Đại sư nói như thế nào:
“Người đời nay không chịu niệm Phật, khinh thường Tây Phương. Không biết sanh về Tây Phương là hành vi của những người có phước lớn, đức dầy, đại trí, đại huệ, đại thánh, đại hiền. Chuyển Ta bà thành Tịnh độ là nhân duyên rất đặc biệt. Quý vị hãy xem, người trong kinh thành một ngày một đêm chết đi biết bao nhiều người? Đừng nói là sanh về Tây Phương, chỉ đếm số người sanh lên trời, trong trăm ngàn người, chưa được một ai! Những kẻ tự phụ là người tu hành, chỉ là chẳng đánh mất thân người mà thôi!”.
“Những kẻ tự phụ là người tu hành chỉ là chẳng đánh mất thân người mà thôi”, đáng sợ hay không? “Chỉ là chẳng đánh mất thân người mà thôi”, đây là tình trạng thật sự. Điều này là một tiếng chuông gõ, nhằm cảnh giác chúng ta. Chúng ta tự phụ là người niệm Phật, cuối cùng có thể vãng sanh hay không?
Ấn Quang Đại sư tự xưng là vị Tăng tự liễu, chỉ biết cơm cháo, chẳng mộng làm việc hoằng pháp lợi sanh. Ngẫu Ích Đại sư cũng có hai câu khác điệu đồng âm:
“Đợi đến Tây Phương quay trở lại,
Trống pháp rền vang khắp đại thiên”
Thật ra tự liễu thật sự có phải là tự liễu hay chăng? Các vị tổ sư chẳng phải là kẻ tự liễu (chỉ lo cho riêng mình thoát ly sanh tử), cử chỉ hành động của các Ngài đáng cho chúng ta suy nghĩ sâu xa! Nhiều người trong bọn chúng ta, tự mình còn chưa liễu sanh tử, mà cứ bận bịu đi hóa độ chúng sanh. Một câu trong Di Đà Yếu Giải đã nói toạc ra: “Năng tự độ tức phổ lợi nhất thiết”(Có thể tự độ tức là mang lại lợi ích rộng khắp cho hết thảy). Lão hòa thượng Hải Hiền chính là thí dụ điển hình, sự vãng sanh của Ngài đã độ được vô số chúng sanh.
Nếu sanh đến thế giới cực lạc những thân bằng quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp trước kia bây giờ họ đang ở cõi nào bạn đều biết rõ. Việc cứu độ họ cũng hết sức dễ dàng, chúng ta nếu có tâm từ bi, có tâm yêu thương. Hiện nay, xã hội này xảy ra vấn đề, vì sao? Những người chân thật yêu thương thân bằng quyến thuộc của mình, họ đang ở trong tam ác đạo, muốn đi giúp đỡ họ, ý niệm này đã rất ít rồi. Vì sao vậy? vì cha mẹ hiện tại của mình đều không hiểu được việc tận hiếu, mà cha mẹ trong đời quá khứ, họ cũng quên sạch cả rồi, tuy rằng hiểu được, thấy được rồi, nhưng dường như cái ý niệm đó cũng không sâu sắc gì vô cùng mờ nhạt, điều này có nghĩa gì? Đây là do vô minh chướng ngại, vô minh phiền não.
Đem tà niệm, ý niệm sai lầm, ý niệm bất thiện thảy đều buông bỏ, vĩnh viễn đừng nghĩ về nó. Bạn nghĩ 1 lần đồng nghĩa tạo thêm 1 lần, sau khi chân thật sám hối, không bao giờ nghĩ tới nữa, chỉ cần bạn nghĩ 1 lần, thì sự sám hối coi như chưa được sám trừ sạch sẽ, vẫn còn sót lại tàn dư bên trong. Nhất định phải niệm đến tâm thanh tịnh, cho nên người niệm Phật chắc chắn có lợi ích, lợi ích gì, đó là thiện niệm.
Ý niệm thiện nhất chính là niệm A Di Đà Phật, thiện nhất trong các thiện, không có ý niệm nào thiện hơn ý niệm này. Nếu bạn thật sự niệm Phật, niệm đến tâm thanh tịnh hiện tiền, bạn sẽ không có đau bệnh. Chân thật tin vào câu Phật hiệu này có thể độ cho chúng ta, có thể giúp đỡ chúng ta, chúng ta 1 chút hoài nghi cũng không có. Tiến sĩ hoew len nói với chúng tôi, ông nói, chúng ta khởi tâm động niệm, đừng cho rằng không có ai biết, cái bàn này biết, cái ghế biết, trần nhà biết, sàn nhà biết, mà bức tường cũng biết, bên ngoài cây cối hoa cỏ, với sơn hà đại địa, cho đến mỗi hạt vi trần, mỗi hạt hát thảy đều biết tất cả, chẳng có thứ nào không biết. Đều có thọ tưởng hành thức, nên làm sao mà không biết được chứ. Bạn làm sao mà gạt người được, gạt chính mình thì có thể, ngay cả 1 hạt cát, bạn cũng không cách gì lừa được nó, bạn khởi tâm động niệm, ngôn ngữ việc làm, chúng đều biết rõ ràng, minh bạch.
Điều này chúng ta phải biết cho nên, tâm thanh tịnh chính là thần thông, thần thông có lớn nhỏ, do mức độ thanh tịnh khác nhau, đến tây phương thế giới cực lạc, được oai thần bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì, ai ai cũng có thần thông quảng đại, bất khả tư nghì. Chúng ta vô phương tưởng tượng, thần thông viên mãn, người niệm Phật chân thật dùng cái tâm chuyên nhất không xen tạp, 1 câu Phật hiệu tức là lấy công đức của A Di Đà Phật, làm thành công đức của chính mình, câu nói này rất quan trọng. Tâm đồng tâm với A Di Đà Phật, nguyện đồng nguyện với A Di Đà Phật, hạnh đồng hạnh với A Di Đà Phật, năng lực thần thông có thứ nào không giống với A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật thần thông quảng đại, không những con người tưởng tượng không nổi, ngay cả thiên nhân cũng chẳng thể suy lường, thanh văn, duyên giác, bồ tát cũng chẳng cách gì nghĩ ra, thật sự chỉ có chư Phật như lai mới biết rõ. A la hán, các ngài có túc mạng thong, nhưng chỉ biết được 500 đời trong quá khứ, nếu thêm 500 đời nữa thì các ngài không biết còn như chúng ta sanh đến tây phương cực lạc thế giới, thân bằng quyến thuộc đời đời kiếp kiếp trong quá khứ, hiện nay sanh vào cõi nào thảy đều biết rõ bây giờ họ là thân phận gì, có hoàn cảnh sinh sống ra sao, bạn đều biết toàn bộ, cứu độ họ sẽ rất dễ dàng.
Chúng ta vì sao phải học Phật, vì sao phải niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, không có gì khác chính là ta muốn giúp đỡ người thân, nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ vô lượng kiếp đến nay. Người thân quyến thuộc, và những chúng sanh có duyên, phát cái tâm này, đây gọi là tâm đại bồ đề.
Bồ đề là giác ngộ, chân thật giác ngộ rồi, ta giác ngộ, ta phải giúp đỡ tất cả chúng sanh giác ngộ. Phật ko thể độ người vô duyên, chỉ cần có duyên, đều có thể được độ, bạn đem pháp môn này truyền lại cho họ, khi căn cơ họ đến rồi, họ sẽ tiếp nhận ngay, liền có thể y giáo phụng hànhnhư vậy lập tức liền được độ.
Chúng sanh trong 10 phương thế giới vô lượng vô biên, chúng ta khởi tâm động niệm, người của cõi tây phương cực lạc đều biết. Chúng ta thật sự muốn vãng sanh thế giới cực lạc.
Còn như là giả muốn, muốn đi, nhưng lại tham luyến cái thế giới này không nỡ rời bỏ, ý niệm này có thể che giấu được người thế gian, nhưng không giấu nỗi người của thế giới cực lạc. Chúng sanh ở cõi cực lạc biết được sẽ thấy rất tức cười, ngay cả người của thế giới cực lạc đều biết, thì A Di Đà Phật làm sao ko biết được chứ. Cho nên, cái nguyện cầu sanh của chúng ta phải thật, không được giả, nguyện phải tha thiết, phải khẩn thiết. Bây giờ, tôi chỉ cầu vãng sanh, đối với cõi đời này tôi chẳng còn chút tham luyến nào, niệm niệm đều hy vọng, sớm 1 ngày được vãng sanh thế giới cực lạc, niệm niệm đều mong chờ.
A Di Đà Phật sớm đến tiếp dẫn tôi. Vì sao đức Phật chưa đến tiếp dẫn tôi? Điều thứ 1, chúng ta vẫn chưa hết duyên với thế giới này bị nghiệp lực khống chế. Điều thứ 2, nghiệp duyên với thế giới này thật hết rồi, vì sao chưa đón bạn đi? Vì bạn không còn để việc đó trong tâm, nên A Di Đà Phật chưa đến tiếp dẫn bạn vãng sanh, để bạn ở lại thế giới này thêm ít năm để làm gì? Làm 1 tấm gương học Phật tốt, làm tấm gương niệm Phật tốt, cho nên ngài không đến đón bạn ngay lập tức. Khi thời gian đến rồi, ngài tự nhiên sẽ hiện thân, người như vậy tôi tin chẳng phải ít. Phật để những người này làm tấm gương cho mọi người xem là thật, không phải giả.
Lời nói của chúng ta, người cực lạc nghe được, không những nghe thấy, họ còn nghe hiểu, ko hề nghe nhầm, bạn muốn đến cõi tây phương, họ cũng biết, nếu ngôn hành của bạn không nhất quán. Miệng nói muốn đi, nhưng tâm lại không thể buông xả, họ cũng biết. Cho nên chúng ta tuyệt đối không thể lừa mình dối người, câu nói này phải luôn ghi nhớ, nhất định không được gạt mình gạt người, Phật bồ tát luôn ở xung quanh chúng ta, nhất cử nhất động của chúng ta họ đều biết. Nếu có thể thường có cách nhìn như vậy, tịnh nghiệp của chúng ta rất nhanh liền thành tựu đây là sự thật, có rất nhiều người đang giám sát chúng ta vô lượng vô biên chư Phật bồ tát, . chúng sanh của thế giới cực lạc, cũng đều là bồ tát. Nếu chúng ta tường tận chân tướng sự thật, sẽ có sự giúp đỡ rất lớn đối với tịnh nghiệp của chính mình.
4. Đệ tử chẳng tu chẳng hành làm sao có tâm đắc?
Chỉ là đem những lời khai thị của tổ sư chép ra, hy vọng dùng bục giảng trong lớp học này, giúp cho các đồng tu dựa vào lời khai thị của tổ sư để củng cố tín nguyện niệm Phật cầu vãng sanh của mình”. Phàm những kẻ tu Tịnh nghiệp phải dùng „quyết chí cầu sanh Tây Phương‟ làm mục đích chính”. Niệm Phật duy chỉ cầu vãng sanh! Con đường này đi đúng rồi, các thứ khác đều không mong cầu. Không phải lão hòa thượng Hải Hiền đã nói rồi hay sao? “Những thứ cảm ứng, lạ kỳ đều chẳng mong cầu, những gì tự nhiên mới tốt”. Công phu thành phiến cũng chẳng mong cầu. Công phu thành phiến là tự nhiên thành tựu, chẳng phải do cầu mà đạt được. Lão nhân gia nói: “Niệm Phật niệm đến một lúc nhất định nào đó, bất kỳ lúc nào cũng đang niệm Phật”. Đó không phải là công phu thành phiến hay sao? Công phu thành phiến là tự nhiên thành tựu, chẳng do tạo tác làm ra.
Chư vị Tổ sư đều là những người tu hành từng trải, lời khai thị của các Ngài thấu tận tim gan, thổ lộ tâm huyết của mình, câu nào cũng xuyên giấy, chẳng có nửa chữ nào dư thừa. Ngàn lời vạn ngữ, chẳng có gì không củng cố tín nguyện cầu vãng sanh của chúng ta, không đến thế giới Cực Lạc sẽ không được! Tín nguyện của chúng ta phải vững chắc “đến mức gió thổi không lọt, mưa rơi không ướt, như tường đồng, vách sắt”thì vãng sanh mới có hy vọng.
Lão cư sĩ Hạ Liên Cư nói: “Muốn được tám gió thổi không lay động, cần phải khẳng định một câu cương tông”. Một câu”tức là một câu A Di Đà Phật”. Dùng một câu A Di Đà Phật, giống như dựa vào một tòa núi Tu Di. Bất luận gặp phải cảnh giới thuận hay nghịch, khổ hay vui cũng vậy, tuyệt chẳng bao giờ đánh mất câu Phật hiệu này. Đó mới là kiên trì chánh niệm”.
Lão hòa thượng Hải Hiền đã làm được! Tuy Ngài không biết chữ, chẳng có trình độ văn hóa, nhưng những lời khai thị của tổ sư đại đức nói trên, Ngài đã thực hiện được hết. Tín nguyện cầu vãng sanh của Ngài vô cùng kiên cố, trời có sập cũng chẳng thể lay động được. Nếu quý vị xin Ngài khai thị về niệm Phật, Ngài sẽ bảo quý vị: “Chẳng có gì để khai thị hết!”Ngài chẳng giống Ấn Quang Đại sư nói một tràng đại đạo lý, nhưng bản thân của Ngài chính là một bộ Ấn Quang Đại Sư Văn Sao sống động. Những đạo lý mà Ấn Quang Đại sư đã dạy, Ngài đều thực hiện viên mãn. Cho nên một câu Phật hiệu này, Ngài đã niệm thành công. Ấn Tổ khai thị chúng ta: “Chỉ cần niệm một câu A Di Đà Phật thuần thục, thành Phật còn có dư. Chẳng học các pháp khác, có gì hối tiếc?”Lão hòa thượng Hải Hiền dùng cả đời Ngài để biểu diễn câu ấy đến mức tột cùng.
Như có kẻ niệm Phật mấy mươi năm, nếu lúc tối hậu bỏ lửng, khinh thị trì danh, đổi qua tu pháp khác, vậy thì coi như xong rồi, hoàn toàn sai rồi. Có loại người như vậy không? Có. Từ xưa cho đến nay có rất nhiều, vậy là thế nào? Niệm cả một đời mà không gặp được Phật, thì họ liền nghi ngờ. Đại Thế Chí Bồ Tát, Trong Viên
Thông Chương nói với chúng ta, Nhớ Phật niệm Phật hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật. Chúng ta nhớ Phật niệm Phật hiện tiền, tương lai vì sao lại không gặp được Phật. Đại Thế Chí Bồ Tát dạy cho chúng ta phương pháp Niệm Phật, Chúng ta thử nghĩ xem chúng ta đã làm được chưa? Thâu nhiếp sáu căn tịnh niệm tương tục, hai câu này vẫn chưa làm được, thì niệm Phật sẽ không có cảm ứng. Nhớ Phật nghĩa là trong tâm nghĩ đến Phật, Niệm Phật nghĩa là miệng niệm Phật. Cần cái gì? Cần thâu nhiếp sáu căn, tịnh Niệm tương tục, Tịnh niệm, thì niệm Phật không được xen tạp.
Người bây giờ phiền phức, trên người có mang theo điện thoại. Niệm được mấy câu Phật hiệu thì điện thoại reo rồi, lập tức bị dừng lại, liền bị gián đoạn. Điện thoại chính là ma chướng lớn nhất, Có người tặng cho tôi, tôi cũng cám ơn họ. Họ tặng một cái điện thoại cho tôi. Nhưng mà làm sao? Tôi đem nó bỏ đi. Tôi không có bị lừa, Không có điện thoại thanh tịnh biết bao nhiêu!
Không có điện thoại, Tôi không quấy nhiễu ai, Người khác cũng đừng quấy nhiễu tôi. Thâu nhiếp sáu căn đó là công phu thật sự.
Cái pháp thâu nhiếp này phải làm như thế nào? Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, Lục căn tiếp súc với lục trần thì cần tu tập điều gì? Không phân biệt, không chấp trước, Đây là thâu nhiếp sáu căn của tiểu thừa, Thấy được rõ ràng, nghe được rõ ràng, nhưng không có ý niệm chấp trước, không có ý niệm phân biệt. Giống như mặt gương soi thấy hình tướng bên ngoài. Soi thấy được rõ rang, nhưng mặt gương không có phân biệt, không có chấp trước. Đây gọi là thâu nhiếp lục căn.
Ngài Hải Hiền niệm Phật 92 năm, thời gian dài đến như vậy, Tôi nghĩ rằng Ngài chắc chắn không chỉ có 4 lần. Ngài Tâm địa thanh tịnh, không nhiễm bụi trần, thường hay lui tới với A Di Đà Phật. Ngài cũng giống như Viễn Công vậy, Ngài không nói, một thời gian dài như vậy, Ở vào cái thời đại khó khăn khổ nạn đến như vậy, Ngài phải nhẫn chịu. Chẳng có ai lại bằng lòng chịu cái khổ này, Đều hy vọng sớm một ngày được vãng sanh, đây chính là nguyện vọng của Ngài. Ngài có cầu xin với A Di Đà Phật, nhưng A Di Đà Phật thì bảo cứ từ từ, bây giờ cơ duyên vẫn chưa chín mùi, kêu Ngài biểu pháp. Ý nghĩa của biểu pháp là gì? Đem giáo hóa của Phật Đà làm ra cho người ta xem. Không cần dùng lời nói, Là kinh gì? Tôi xin nói với các vị, đó là Đại Thừa Vô Lượng Thọ kinh. Bạn mang bộ kinh này giở ra xem thử, đem nó đối chiếu với Ngài. Không có điều nào mà Ngài không làm được, tất cả đều làm được.
Ở phẩm thứ 8, Phật có đề ra một cương lĩnh, Thiện hộ tam nghiệp.
Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá, Ngài làm được rồi. Cả một đời không nói lỗi người khác, không phê bình người. Thiện hộ thân nghiệp, bất phạm luật nghi, Ngài làm được rồi. Thiện hộ ý nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm. Chín mươi hai năm không có tâm tham, không có sân hận, không có hoài nghi. Không có tham, sân, si, mạn, nghi. Bạn hỏi Ngài. Ngài nói "Tôi cái gì cũng biết"Cái gì cũng nhịn được
Lão cư sĩ Hạ Liên Cư có làm một đôi liễn để kính điếu vị tổ thứ mười ba của Tịnh độ Tông là Ấn Quang Đại sư. Ngài hội tập kinh văn dịch đời Tần và đời Đường của kinh A Di Đà. Đệ tử nghĩ: Nếu dùng đôi liễn này để kính viếng tổ thứ mười bốn của Tịnh độ Tông là Hải Hiền Đại sư cũng rất thích hợp. Hai câu liễn như sau:
“Pháp âm tuyên lưu linh đắc thù thắng lợi ích an lạc
Từ bi gia hựu, thành tựu như thị công đức trang nghiêm”.
Là một vị xuất gia, tôi có nghĩa vụ và có trách nhiệm. Trước khi kết thúc, tôi dùng nhiều phương thức để lập lại nhiều lần một câu nói trong Ấn Quang Văn Sao rồi nhấn mạnh thêm, hòng nhắc nhở mọi người. Đương nhiên lời của Ấn Tổ là văn Văn Ngôn, đệ tử trực tiếp quy nạp, phiên dịch thành: “Thời kỳ Mạt Pháp, muốn liễu sanh thoát tử ngay trong một đời này, duy nhất chỉ có một pháp môn là Tịnh độ”. Nhiệm vụ cấp bách của chúng ta hiện nay là niệm Phật cầu vãng sanh, hạ công phu trên câu Phật hiệu này.
Sau cùng, tôi cúng dường mọi người thêm hai câu thơ. Hai câu thơ này của Tỉnh Am Đại sư nhằm biểu đạt tâm nguyện và sự hành trì của chính mình, mà cũng mô tả một cách chân thật lão hòa thượng Hải Hiền:
“Bình sanh chỉ hữu Tây quy nguyện, Khẳng vị tha duyên phụ thử tâm?
Bình sanh chỉ nguyện về Tây,
Chẳng vì duyên khác đổi thay tâm này”.
Hôm nay báo cáo tới đây. Nếu trong quá trình báo cáo có sai sót, kính xin sư phụ thượng nhân và các vị đồng tu phê bình, sửa đổi, chẳng tiếc ban cho lời dạy, mong đại chúng từ bi bố thí hoan hỷ.
A Di Đà Phật
Bất tiếu đệ tử Thích Tự Liễu khấu trình.
LÃO HÕA THƯỢNG TỊNH KHÔNG NHẬN XÉT
“Chúng ta còn ba mươi lăm phút, còn mấy bài nữa? Còn hai bài. Tôi nghĩ, chúng ta nghe xong, ai nấy đều được lợi ích, thọ dụng. Pháp sư Tự Liễu chẳng phải là tự liễu! Pháp sư giúp mỗi người, mỗi cá nhân chúng ta tự liễu. Hai chữ “Tự Liễu”này chẳng phải là của pháp sư chuyên dùng, mỗi người chúng ta ai nấy cũng nên tự liễu. Những chuyện khác tôi sẽ không nói dài dòng nữa, hãy nghe bài kế tiếp. Báo cáo của mỗi người đều hay, đều khiến cho tôi sanh tâm hoan hỷ”.