Phật Học Vấn Đáp


Thế Nào Gọi Là Giải Thoát?

10/8/2022 7:48:48 AM
Ý nghĩa “Giải Thoát”, có thể rất rộng, cũng có thể rất hẹp; có thể cao, cũng có thể thấp. Từ định nghĩa căn bản có thể nói, cái gọi là Giải Thoát, chính là giải phóng và thoát ly sự ràng buộc. Đã có ràng buộc thì không có tự do, đã giải thoát ràng buộc thì được tư do. Vì vậy, “Giải Thoát” cũng có nghĩa là tự do.
 
Nhưng mà tự do là có phạm vi. Người đã tự do là không bị người khác ngăn cản, vì bảo vệ pháp luật có thể đạt được tự do, cho nên tự do không có nghĩa là buông thả. Tự do cũng có mức độ của nó.
 
Nhu cầu của khuynh hướng tự do, thực tại chính là sự phản kháng của thái độ chủ quan đối với thái độ khách quan. Động lực phản kháng này cũng chính là bản năng của sinh mạng. Bao gồm sự tồn tại bên trong thực vật và động vật. Nếu đã đánh mất đi bản năng của sự phản kháng này thì nhất định không thể sinh tồn.
 
Ví như sự sinh trưởng của thảo mộc, về sau các thảo mộc đã phản kháng sức hút của địa cầu, mới có thể phát triển từ trên mặt đất hướng đến không gian, động lực này tự mong cầu phát triển, chính là một loại phản kháng đòi hỏi tự do.
 
Động vật, những loài thú trong vườn động vật, quyết không phải là tự nguyện của chúng. Động vật hoang dã cho đến côn trùng, chúng nó đều có một bản năng tự cầu cuộc sống . Nhất định phải có một năng lực tự vệ để chống cự lại hoàn cảnh. Cho dù là gia súc, cũng không phải không tranh đấu cho sự sinh tồn của chúng nó.
 
Nhân loại đối với nhu cầu tự do càng thêm mạnh mẽ, càng thêm sâu sắc hơn các động vật khác. Tuy nhiên, do văn hóa và giáo dục đang yêu cầu biểu hiện những phương diện tự do, không giống động vật lộ liễu như vậy. Nhưng mà, giai cấp động vật càng cao thì nhu cầu tự do càng lớn, văn hóa nhân loại càng cao, nhu cầu tự do cũng càng thêm phức tạp. 
          
 Tự do của giới sinh vật, chỉ đang mong cầu sự sinh tồn mà thôi. Tự do của giới động vật chỉ mong cầu ham muốn ăn uống đơn giản và thoả mãn ham muốn sinh sản. Người Nguyên Thủy của nhân loại, đại khái yêu cầu tương đối cao hơn động vật cao cấp một bậc. Con người bao giờ cũng vẫn là con người. Con người không phải không có cuộc sống thể xác mà còn có cuộc sống tinh thần. Cho nên dần dần hướng đến sự tiến bộ của thời đại văn minh.
 
 Một người văn minh, khuynh hướng tự do là ham muốn sinh tồn (ăn uống) thể xác, tiến triển đến kéo dài ham muốn (sinh sản) của thể xác, lại phát triển đến ham muốn ổn định tinh thần (bảo hộ của Thần Linh), cuối cùng, cần phát triển đến sự ham muốn tinh thần bất diệt. Cái gọi là tinh thần bất diệt, là dùng đến sự bù đắp sự hối tiếc bất diệt của thể xác. Một người văn minh, khi biết hét lên tiếng kêu “Không tự do chi bằng chết”, đó chính là chỉ tự do của thể xác (sinh tồn) và tự do của tinh thần (tư tưởng), nhưng lại không phải bao gồm tự do tinh thần bất diệt. Người có khả năng yêu cầu tinh thần bất diệt, thì không phải là người bình thường. Nhưng yêu cầu này, quả thật là mỗi người nên có, nếu không thì cuộc đời của con người là những yêu cầu mù quáng, hôn trầm, không có tự giác, không có lí tưởng, và cũng không có tín tâm.
 
 Đương nhiên, yêu cầu tinh thần bất diệt, không phải là yêu cầu tín ngưỡng của tôn giáo. Ví như rất nhiều học giả Vô Tôn Giáo cho đến Phản Tôn Giáo, các vị ấy không tin Thần Thánh, không tin Thượng Đế, cũng không tin Thiên Đường, càng không tin sau khi chết còn có những đồ vật như thế, gọi là linh hồn. Các vị ấy chỉ cho rằng đã tạo ra phước cho nhân loại, tinh thần của các vị ấy sẽ vĩnh viễn tồn tại trong lich sử nhân loại, và mãi mãi hòa nhập vào toàn thể không gian vũ trụ. Điều đó, các vị ấy gọi là đem “Tiểu Ngã” thay đổi vào cái “Đại Ngã”. Kỳ thật, các vị ấy đến từ trong sự đần độn, cũng lại đi vào trong sự đần độn. Nhưng yêu cầu tinh thần bất diệt của tư tưởng này, đòi hỏi cá nhân đột phá thời gian và không gian hiện thực, đòi hỏi giá trị tự do đạt được càng rộng rãi và vững bền. Đó chính là không thể không nhận thức được, cho nên như đem thước đo nới rộng, những điều này thuộc về khuôn mẫu tín ngưỡng của tôn giáo.
 
 Nhưng có thể phổ biến và thích nghi với khuynh hướng tự do của nhân loại, chính là  nhu cầu linh hồn bất diệt ( Phật Giáo không cho rằng có một linh hồn cố định, sanh tử của chúng sanh đơn thuần tuân theo sự hợp tan và dẫn dắt của nghiệp). Cuộc sống sau khi chết vẫn tồn tại có một cái “Ngã”, thể xác tuy nhiên đã hủy hoại rồi, nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại. Điều này, tín đồ Thần Giáo nói, linh hồn có thể hiến dâng sự kêu gọi ân huệ của Thượng Đế mà đi vào Thiên Đường của Thượng Đế hưởng thụ sự hạnh phúc suốt đời. Theo quan điểm Phật Giáo, thể xác tuy đã chết, nhưng hạt giống nghiệp thiện ác vẫn không tiêu mất, chúng sẽ dìu dắt quá trình sinh tử của chúng ta theo nghiệp lực đi tiếp thọ một cuộc sống khác.
 
 Do đó, theo quan điểm Thần Giáo, bất luận sanh lên trời cũng tốt; theo quan điểm Phật Giáo, luân hồi sinh tử thiện ác cũng tốt, đều là do lời chú giải yêu cầu tinh thần bất diệt của nhân loại mà đạt được hiệu lực. Đây cũng chính là tiền đồ tất nhiên của tư tưởng giải thoát. Nhưng theo giáo lí Phật Giáo: phàm có sự tồn tại một “Bản Ngã”, bất luận là “Tiểu Ngã” hoặc “Đại Ngã”, bất luận trên trời dưới đất, thì phạm vi tự do của các vị ấy sẽ bị hạn chế. Cho nên không gọi là giải thoát cứu cánh. Con đường giải thoát của Phật Giáo, mục dích là giải thoát quan niệm của một “Bản Ngã” mà có thể đạt được tự tại tuyệt đối.
 
Trích từ:  Học Phật Nên Biết. Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm



Câu Hỏi Ngẫu Nhiên


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật