Phật Học Vấn Đáp


Người tu tập vẫn còn là phàm phu, Kết Sử chưa trừ thì làm sao vãng sinh được?
Kinh Di Lặc Vấn ghi: “Niệm Phật thì chẳng phải niệm phàm phu, không xen niệm Kết Sử, mới được sinh về cõi A Di Đà”. Hỏi: Theo kinh này dạy, hễ niệm Phật thì chẳng có niệm phàm phu, chẳng xen niệm Kết Sử mới thành tựu Tịnh nghiệp. Ngày nay, người tu tập vẫn còn là phàm phu, Kết Sử chưa trừ thì làm sao vãng sinh được? Nay Ngài niệm Phật, công phu thành tựu, lưới nghi đã dứt, vậy xin giải bày tường tận?

8/30/2022 7:14:35 AM

Xiển dương giáo pháp tùy theo căn cơ, nhưng ý chỉ bí mật rất khó tỏ ngộ, còn văn chương dù có bóng bẩy vẫn có thể hiểu được trong chớp mắt, cho nên không biết lấy hay bỏ, liền vọng sinh nghi chấp. Vì sao? Đức Phật vì hàng phàm phu mà chỉ dạy cho họ tu tập Tịnh nghiệp, nếu họ đã tin sâu nhân nhân quả thì đâu phải là ngu! Nay giải thích phàm phu có bốn trường hợp:

  1. Phàm mà không ngu: Những chúng sinh từ cõi thiện cho đến địa vị cuối cùng của Thập Tín[15] không đạt được trí tương tợ duy thức, nên gọi là phàm. Nhưng có lòng tin sâu xa đối với pháp Tứ đế và Duyên sinh, khởi tâm lấy bỏ, lợi hay hại đều có thể biết được, đó chính là không ngu.
  2. Ngu mà không phàm: Hàng Bồ tát từ Thập Giải trở lên chưa chứng đắc cảnh giới Chân Như nên nói là ngu; đạt được trí tương tợ vô lậu, suy xét biết được Hai Vô Ngã[16], không trôi theo dòng sinh tử, nên được cho là chẳng phàm. Lại giải thích: Bồ tát từ Sơ Địa trở lên đối với Thắng Tấn Phần[17] vẫn còn bị Vô minh chướng ngại, nên gọi là ngu; do đạt được thánh pháp nên chẳng phải phàm.
  3. Vừa phàm vừa ngu: Tất cả chúng sinh từ cõi thiện trở về trước, chưa hiểu giáo lý của đức Phật nên gọi là phàm, không rõ nhân quả nên gọi là ngu.
  4. Chẳng phải phàm chẳng phải ngu: Chính là đức Như Lai có đầy đủ Thánh trí, dứt sạch hai chướng[18], nên chẳng phải phàm, ngu.

Nói “phàm” nghĩa là trôi nổi, đối với pháp trị thế thì không phân biệt được tổn hại hay lợi ích, trôi nổi thọ sinh thì chính là phàm; thiện ác đến đi, nặng nhẹ không hề hay biết, đó chính là ngu. Nay, người tu tập muốn vãng sinh cõi Tịnh phải biết chốn Sa bà này đầy dẫy khổ đau, rất mực nhàm chán, không muốn ở lâu; nghe nói Tây Phương an vui vô cùng, chí thành quán tưởng, nguyện thệ vãng sinh thì vĩnh viễn diệt trừ dòng đau khổ, từ bỏ hẳn cảnh giới nhiễm ô. Như thế, họ đâu phải hạng tầm thường, trôi nổi thọ sinh. Chỉ cần niệm Phật cầu vãng sinh, tỏ ngộ Vô Sinh, tương lai sẽ làm Phật, chuyên tâm hóa độ pháp giới chúng sinh. Người nào phát khởi tâm này nhất định được sinh về cõi vi diệu. Vì có sự hiểu biết này nên chẳng phải ngu.

Nói “không xen niệm Kết Sử”: Kết Sử là mười Sử[19], chín Kết[20]. Tâm niệm Phật chính là thức thứ sáu. Khi Tâm Vương sinh khởi muốn làm việc ác, Kết Sử phiền não mới bộc phát. Khi đang niệm Phật thì tâm niệm Phật cùng với năm pháp Biến Hành[21], mười một Tâm Sở Thiện[22] tương ưng không phát động các Kết Sử, các Kết Sử không có nhân sinh khởi. Tâm duyên với cảnh khác, Kết Sử liền phát sinh. Khi quán tưởng Phật, Kết Sử bị khống chế, nên nói “không xen niệm Kết Sử”. Nguyện sinh cõi Tịnh thì không nên nói xen tạp, bởi do Kết Sử chưa đoạn nên có xen tạp, nếu đã diệt trừ thì không xen tạp. Thế thì do chưa đoạn nên Kết Sử có lúc hiện hành. Tâm thanh tịnh niệm Phật thì trái ngược với Kết Sử, tâm đang niệm Phật thì Kết Sử không hiện hành. Ở đây nói “không xen tạp” là không để tâm niệm Phật bị gián đoạn, phòng ngừa không cho Kết Sử sinh khởi, chứ không nói diệt hết Kết Sử là không xen tạp. Thánh nhân đã dứt sạch phiền não, ở cõi này an ổn, không nhọc niệm Phật để cầu sinh.

_______________

[15] Thập tín: mười tâm mà 10 giai vị đầu tiên trong 52 giai vị Bồ tát tu hành. Mười tâm này thuộc về Tín vị, có công năng giúp cho hành giả thành tựu tín hạnh.

Phẩm Hiền Thánh Danh Tự, kinh Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp, q. thượng, ghi 10 tâm là:

  1. Tín tâm: nhất tâm quyết định, mong muốn thành tựu.
  2. Niệm tâm: thường tu niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới, Thí và Thiên.
  3. Tinh tấn tâm: nghe Bồ tát tạng, siêng năng tu tập thiện nghiệp không gián đoạn.
  4. Định tâm: tâm an trụ vào sự, vào nghĩa, xa lìa tất cả hư ngụy, phù phiếm và nhớ tưởng phân biệt.
  5. Nghe Bồ tát tạng: tư duy quán sát, rõ biết tất cả pháp không ngã không nhân, tự tính không tịch.
  6. Giới tâm: thụ trì luật nghi thanh tịnh của Bồ tát, thân, khẩu, ý thanh tịnh, không phạm các lỗi, nếu có phạm thì sám hối trừ diệt.
  7. Hồi hướng tâm: hồi hướng các thiện căn đã tu được về Bồ đề, không nguyện sinh vào các Hữu; hồi thí cho chúng sinh, không vì riêng mình; hồi hướng cầu chứng được thật tế, không đắm trước danh tướng.
  8. Hộ pháp tâm: phòng hộ tâm mình, không khởi phiền não, lại tu năm hạnh: mặc hộ, niệm hộ, trí hộ, tức tâm hộ và tha hộ.
  9. Xả tâm: không tiếc thân mạng, tài sản, những gì có được đều buông xả.
  10. Nguyện tâm: lúc nào cũng tu tập các nguyện thanh tịnh (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5321).

[16] Hai vô ngã: là nhân không và pháp không, hoặc nhân vô ngã và pháp vô ngã.

  1. Nhân vô ngã: thân người đều do năm ấm giả hợp tạo thành không có chủ thể chân thật. Đó là pháp quán của Tiểu Thừa nhằm đoạn trừ phiền não chướng đạt được Niết bàn.
  2. Pháp vô ngã: các pháp đều do nhân duyên sinh vốn không có tự tính. Đó là pháp quán của hành Đại Thừa Bồ tát để đoạn trừ sở tri chướng, được quả vị Bồ tát (Kinh Lăng Già, q. 1).

[17] Thắng tấn phần: tu tập hạnh tự lợi gọi là Tự phần, tu tập hạnh lợi tha gọi là Thắng tấn phần.

[18] Nhị chướng: hai sự chướng ngại, Phiền não chướng và Sở tri chướng. Phiền não chướng là do chấp ngã mà sinh ra, vì tất cả các hoặc tham, sân, si phát nghiệp nhuận sinh phiền não thân tâm chúng sinh, khiến sinh tử mãi trong ba cõi, năm đường, chướng ngại quả Niết bàn. Sở tri chướng, do chấp pháp mà sinh ra, vì các hoặc tham, sân, si làm cho mê mờ, chướng ngại diệu trí Bồ đề, khiến không thể rõ biết sự tướng và thật tính của các pháp (Luận Thành Duy Thức, q. 9).

[19] Sử: là tên khác của phiền não. Vì phiền não dẵn dắt con người chìm đắm trong cõi mê, cho nên gọi phiền não là Sử.

[20] Kết: Kết Sử, trói buộc chỉ cho phiền não. Vì phiền não trói buộc chúng sinh vào cảnh mê, khiến không thể thoát khỏi cái khổ sinh tử.

[21] Năm biến hành: năm món tâm sở là Xúc, Tác, Ý, Thọ, Tưởng và Tư. Năm tâm sở này có mặt cùng khắp, vì đầy đủ bốn nghĩa: Nhất thiết tính là thông cả ba tính thiện, ác và vô ký. Nhất thiết xứ là thông cả ba tính thiện, ác và vô ký. Nhất thiết xứ là thông cả ba cõi chín địa. Nhất thiết thời là có mặt ở tất cả mọi thời gian. Nhất thiết câu là một pháp sinh khởi thì các pháp kia đều sinh khởi theo.

[22] Mười một Tâm sở thiện: là một trong sáu nhóm tâm sở do tông Duy thức lập ra:

  1. Tín: chấp nhận, ưa thích, không nghi tất cả thiện pháp. Có ba loại:

– Tín thật hữu là tin nhận sâu sắc lý chân thật của các pháp.

– Tín hữu đức là tin ưa sâu sắc đức chân tịnh của Tam Bảo.

– Tín hữu năng là có sức tin sâu xa đối với tất cả thiện pháp thế gian, xuất thế gian.

  1. Tàm.
  2. Quý.
  3. Vô tham: tâm chán lìa và không nhiễm trước cảnh ngũ dục vừa ý.
  4. Vô sân: tâm thường nhẫn nhục, không khởi giận tức đối với cảnh ngũ dục trái ý.
  5. Vô si: hiểu biết và quyết đoán rõ ràng đối với lý sự tất cả pháp, không mê lầm.
  6. Cần: tinh tấn tu tập tất cả thiện pháp, không sinh lười mỏi, viên mãn thiện nghiệp.
  7. Khinh an: xa lìa sự não loạn thô trọng và diệt trừ các pháp làm chướng ngại thiền định, điều hòa thân tâm, trở nên an vui nhẹ nhàng.
  8. Bất phóng dật: tinh tấn tu ba nghiệp thân, khẩu, ý. Gia công mạnh mẽ, diệt trừ các hoặc phải đoạn và thực hành các thiện pháp phải tu, mau chóng thành tựu viên mãn tất cả thiện pháp thế gian, xuất thế gian, không buông lung.
  9. Hành xả: tinh tấn tu ba nghiệp thân, khẩu, ý khiến tâm bình đẳng, an trụ trong vắng lặng, xa lìa tất cả các chướng như trạo cử, hôn trầm.
  10. Bất hại: không làm tổn não, không sân khuể đối với tất cả chúng sinh hữu tình, thường vận dụng tâm từ bi trừ diệt khổ ách đem đến an vui cho họ ( TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5271).

Trích từ:  Tây Phương Yếu Quyết Thích Nghi Thông Quy . Đại Từ Ân tự Sa Môn Khuy Cơ | Dịch Giả :Thượng Tọa Thích Nguyên Chơn


Thẻ
Niệm Phật        Nghiệp        Công Phu        Thập Niệm        A Di Đà       

Câu Hỏi Ngẫu Nhiên


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật