Home > Pháp Luận > Quan-The-Am-Bo-Tat-Bon-Tich-Cam-Ung-Tung

Lời Tựa


Một niệm tâm tánh của chúng ta bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên mà bất biến. Gặp phải duyên mê nhiễm sẽ trái giác, hợp trần, luân hồi trong lục đạo, đến mức cùng cực là đọa mãi trong địa ngục A Tỳ, nhưng tâm tánh chẳng giảm. Gặp duyên ngộ tịnh sẽ bỏ vọng về với Chân, tiến nhập, chứng đắc tam thừa, tột bậc là viên thành vô thượng giác đạo, nhưng tâm tánh chẳng tăng. Trong địa vị phàm phu, nếu được nghe danh hiệu của Phật và những ý nghĩa rất sâu trong kinh thì ngay lúc ấy pháp Bồ Đề thấm nhuần đã được gieo xuống ruộng tám thức. Tuy thoạt đầu mịt mờ chẳng tự hay biết, nhưng nếu có thể chẳng tự ruồng rẫy, phụ bạc chính mình, cực lực tăng trưởng [chủng tử ấy] thì sẽ tiếp tục từ mảy giọt trở thành ngòi rãnh, dần dần trở thành kinh rạch cho đến thành sông to sóng cuộn ngập trời, cuối cùng ắt sẽ vào được biển Tát Bà Nhã (Nhất Thiết Trí), viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ “không thể được”, triệt chứng tánh Chân Như nhiệm mầu thường trụ bất biến vốn sẵn có trong tâm, từ đấy, lại do Bổn mà thị hiện Tích, dùng Quả để hành Nhân, truyền đăng cho nhau, sáng ngời vô tận. Há chẳng phải là bậc đại trượng phu vĩ đại ư?

Kinh Pháp Hoa dạy: “ Phật lưỡng túc tôn, tri pháp thường vô tánh, Phật chủng tùng duyên khởi, thị cố thuyết Nhất Thừa” (Chư Phật lưỡng túc tôn, biết pháp thường vô tánh, Phật chủng do duyên khởi, vì thế nói Nhất Thừa), thời và nghĩa của chữ Duyên lớn lao thay! Tôi từ thuở đội mũ liền đọc kinh Phật; khi ấy, chỉ muốn cắt xén lấy những ý nghĩa của kinh văn để làm tài liệu viết lách. Năm Dân Quốc thứ hai (1913) mới hướng lòng về Tịnh Độ để mong thoát khỏi nhà lửa này, vào ao báu kia. Do biết Quán Âm Đại Sĩ chính là bậc hướng dẫn hàng đầu nơi cõi sen, lại hiện thân trong khắp các cõi nước nhiều như vi trần, tùy theo căn cơ lợi ích chúng sanh, lại có nhân duyên sâu đậm nhất với cõi Sa Bà. Do Bồ Tát thị hiện ứng hóa tại Phổ Đà, tỉnh Chiết Giang, nên bèn dấy lên ý niệm muốn đến triều bái, nhưng còn chưa có dịp khởi hành. Về sau, đọc mấy bài văn của lão pháp sư Ấn Quang đăng trên báo đề xướng niệm Phật, khuyến khích, cổ vũ [hành nhân tịnh nghiệp] hãy dốc lòng thành kính, không ngờ rất hợp với nỗi niềm canh cánh trong lòng tôi, chỉ đúng căn bệnh tôi đang mắc phải (căn bệnh ở chỗ hoàn toàn không biết thành kính, nay tự phơi bày ngõ hầu sám hối), bèn một lòng mong được gặp Ngài.

Năm Dân Quốc 11 (1922), gói ghém hành trang lên đường, lên núi triều bái, yết kiến, dâng lên thầy bài Lễ Quán Âm Sớ, rất mong được thầy hứa khả. Ngài chẳng đợi tôi thỉnh cầu, đem tặng bộ Văn Sao mà tôi vốn sẵn lòng ngưỡng mộ; nếu chẳng phải do túc duyên xui khiến, há lại có chuyện khế hợp như thế ư? Ngày hôm sau xuống núi, Sư lại ủy thác chuyện soạn Đại Sĩ Tụng, tôi cũng tự quên mình kém hèn, ngây ngô nhận lời. Tu chỉnh, thêm một thiên Đại Sĩ Tụng vào bộ [Phổ Đà] Sơn Chí là chuyện thầy đã canh cánh bên lòng mấy năm; hiềm vì tâm độ sanh tha thiết, người hỏi đạo quá đông, Ngài chưa rảnh rang để cất bút. Những người cùng học Phật nơi xứ tôi mấy năm trước đã từng yêu cầu soạn văn ca tụng sự cảm ứng của phẩm Phổ Môn, nhưng tôi sợ phải nhọc lòng nên đã viện cớ bệnh tật để thoái thác.

Đến nay, vâng lời thầy dặn dò, giao phó, rốt cuộc dùng văn chương để báo đáp [ân đức] Đại Sĩ, thỏa lòng mong mỏi của những người cùng hàng, nhân duyên ấy há có thể nghĩ bàn được ư? Trước hết là biên tập kinh văn, đến phần sự tích cảm ứng, tôi phải than thở [những sự tích cảm ứng của Quán Thế Âm Bồ Tát] mênh mang như khói tỏa trên mặt biển, chẳng biết phải viết từ đâu. Từ những lời thầy răn như “mong được lưu thông trọn pháp giới, khiến cho chúng sanh đều cùng được thấm đượm sự giáo hóa từ ái”, như “khiến cho chúng sanh trong pháp giới cùng gieo thiện căn, cùng được sanh về Tây Phương mới thôi”, như “người đọc sẽ do sách này mà hoan hỷ, sẽ hưởng lợi ích sanh thiện, phá ác, thấu hiểu lý”, bất giác đột nhiên ngộ hiểu lời thầy khuyên chính là [nói về] tấm lòng Đại Sĩ. Công đức của Đại Sĩ, [ngay cả] Phổ Hiền Bồ Tát vẫn chẳng thể suy lường được một phần bằng sợi lông thì làm sao [hạng phàm phu như tôi có thể] ca tụng được? Xó chợ cùng quê, ngu phu, ngu phụ không ai chẳng nghe danh Đại Sĩ, sùng phụng Ngài là bậc từ mẫu, há có thể ca tụng được ư? Lời ca tụng này, bất quá là nương theo Bổn Tích của Đại Sĩ để răn đời, giáo hóa cõi tục mà thôi!

Trong tác phẩm ca tụng này, trước hết là Khế Kinh, kế đến là sự cảm ứng, [tức là] Bổn trước, Tích sau. Sự tu chứng được nói đến trong kinh chính là Bổn của Bổn, còn sự ứng hóa chính là phần Tích của Bổn. Những sự thị hiện theo từng loại trong phần cảm ứng chính là từ Bổn hiện Tích; cứu khổ, ban vui, chính là phần Quyền của Tích. Hoằng pháp, nhiếp hóa chúng sanh chính là Thật trong Tích. Đoạn nói về mười tâm trong phần kết luận sau đấy nhằm khuyến khích hành giả hãy từ Tích trở về Bổn.

Hơn nữa, sự thị hiện trong loại cảm ứng đầu tiên chính là vì chúng ta trái giác hợp trần, làm nô lệ cho tai mắt đã lâu, phàm những gì chúng ta không thể thấy biết thường coi là hư giả, chẳng tin Pháp Thân thường trụ và [thật sự] có Phật, Bồ Tát, cũng chẳng tin Pháp Thân lưu chuyển, có nhân quả báo ứng. Nỗi họa của kiến giải cho rằng “chết rồi là hết sạch” chẳng thể kể xiết được! Vì thế, Đại Sĩ thị hiện để răn nhắc, muốn cho con người đừng cô phụ ơn Phật, đừng cô phụ tánh linh của chính mình.

Kế đó, cứu khổ, ban vui là vì chúng ta bao kiếp mê vọng, dẫu biết tâm là chủ nhân, [xả] thân như đổi nhà, nhưng Ngã Kiến vẫn chẳng thể rỗng không được, vẫn cứ hướng ra ngoài rong ruổi tìm cầu, vẫn cứ tạo nghiệp như ôm củi chữa lửa, chỉ càng thêm tự thiêu thân. Nhất niệm hồi quang, dùng tâm chuyển nghiệp, hình ngay, bóng sẽ thẳng, đấy gọi là “tự cầu lắm phước” vậy! Kế đến là kẻ hoằng pháp, ba cõi không yên ví như nhà lửa, hy sinh những thứ quý đẹp, cam phận tầm thường mà còn tự hào, dùng Phật pháp để cầu phước báo, dùng minh châu để ném chim sẻ, người trí tiếc nuối lắm thay!

Vì thế, đẩy lùi pháp thế gian, đề cao pháp xuất thế; nhưng tu hành không gì đơn giản bằng trì danh, thành Phật không chi dễ bằng sanh về Tịnh Độ. Bởi thế, nhiếp hóa chúng sanh, để đến rốt cuộc họ sẽ quy hướng pháp này. Đấy chính là ý nhỏ nhiệm khuyên dụ dần dần, mà điều ấy cũng nhằm đề cao ý chỉ của chương [Quán Âm] Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm: “Trước hết là thị hiện, kế đến là cứu khổ, thỏa mãn sở cầu, nhằm [khiến cho chúng sanh đều] quy hướng đại Niết Bàn”. Chánh văn và phần chú giải [của bộ Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng này] tổng cộng ba quyển, tôi ghép thêm vào sau sách những đoạn trích dẫn kinh văn để làm chứng, tạo thành một quyển nữa.

Soạn xong bản thảo tôi liền trình lên Ấn Quang đại sư giám định, được Ngài hứa khả rồi mới dám soạn thành bản hoàn chỉnh. Văn chương tuy kém cỏi, vụng về, nhưng đối với ý nguyện muốn nêu bày sự cảm ứng nơi Bổn và Tích của Đại Sĩ cũng không phải là chẳng giúp được tí nào! Nguyện Tam Bảo gia bị, ngõ hầu đọc giả đều tin tưởng, hành theo, sẽ về thẳng Lạc Bang, chẳng lẩn quẩn trong tam giới, triệt chứng tự tánh, thường trụ Tịch Quang. Kinh giáo trong Đại Tạng như ngón tay chỉ mặt trăng, tấm cám thế tục nào đáng cho người sáng mắt đoái hoài, nhưng thanh luận đã tuyên rõ, Như Lai huyền ký, do lòng ngưỡng mộ Đại Sĩ, nên bất đắc dĩ vẫn chẳng tự xét mà cứ phô trương văn chương phàm tục, tầm thường. Tôi trước đã có duyên với Đại Sĩ, sau lại được kết duyên với Ấn Quang đại sư, rốt cuộc tác phẩm này có lẽ sẽ được Đại Sĩ tạo duyên mà lưu thông phổ biến trong thiên hạ mai sau, đèn nối tiếp đèn, sáng ngời vô tận, ngõ hầu thỏa nguyện độ sanh của Đại Sĩ, công khăng khăng soạn thuật cũng chẳng uổng phí. Đấy chính là điều tôi vẫn sớm tối thơm thảo cầu chúc vậy.

Đầu Hạ năm Giáp Tý, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Hứa Chỉ Tịnh soạn ở Bành Trạch.


Lời Tựa Thứ Hai

Sự khổ trong thế giới Sa Bà nhiều nhất, chúng sanh trong cõi Sa Bà nhĩ căn nhạy bén nhất. Do Quán Âm Đại Sĩ tâm từ bi tha thiết nên có nhân duyên sâu đậm nhất đối với thế giới này. Do Ngài tùy loại hiện thân, tầm thanh cứu khổ, khiến cho chúng sanh nghe danh, thấy hình, luyến mộ, tán thán. Do nhân duyên ấy khiến cho chúng sanh gần là gieo phước trong cõi trời người, xa là chứng quả Bồ Đề. Trong hội Lăng Nghiêm thuở trước, Ngài hiển thị sự tu nhân nơi bổn địa, từ Văn Tư Tu, nhập Tam Ma Địa, xoay [cái Nghe] trở lại nghe nơi tự tánh, chứng viên thông chân thường. Tâm diệu giác do Ngài chứng được nơi bổn địa, trên hợp với sở chứng rốt ráo của mười phương chư Phật, dưới hợp với cái tự tâm sẵn có của chúng sanh mười phương. Do vậy, Ngài và chư Phật có chung một từ lực, cùng một niềm bi ngưỡng với chúng sanh. Từ đấy, hiện thân trong mười pháp giới, dùng ba mươi hai ứng thân, mười bốn thứ vô úy, bốn thứ vô tác diệu lực chẳng thể nghĩ bàn độ thoát chúng sanh, khiến cho họ đều đích thân chứng được diệu giác chân tâm sẵn có trong tự tâm mới thôi.

Đức Phật sai ngài Văn Thù chọn lựa pháp môn khế cơ nhằm lợi lạc chúng sanh trong đời hiện tại, vị lai; nhân đấy, đức Văn Thù loại trừ [pháp Viên Thông của] hai mươi bốn vị thánh, riêng đề cao [pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của] Quán Âm. Những kẻ mò mẫm mù quáng chẳng hiểu rõ duyên do, liền bảo: “Quán Âm trúng tuyển, Thế Chí hỏng thi!” Do một lời này khiến cho những kẻ không hiểu biết miệt thị pháp môn Niệm Phật, chẳng chịu tu trì, chẳng biết Nhĩ Căn Viên Thông nhằm dành cho bậc đương cơ là A Nan vốn phạm lỗi đa văn cũng như những kẻ lợi căn chuyên tham cứu hướng thượng trong đời sau, còn Niệm Phật Viên Thông thích hợp với khắp mọi căn cơ của hết thảy chúng sanh trong mười phương ba đời. Vì vậy, bậc chứng ngang chư Phật vẫn phải hồi hướng vãng sanh, kẻ sắp đọa A Tỳ mười niệm liền dự vào phẩm cuối.

Quán Âm và Thế Chí cùng là bậc thượng thủ trong cõi Di Đà, cùng nhiếp thọ người niệm Phật trong mười phương sanh về Tịnh Độ; nhưng mỗi Ngài dạy pháp tu khác biệt đôi chút. Bởi lẽ, một vị chuyên trọng niệm Tha Phật, nhưng không có Tự Phật thì làm sao hiển được Tha Phật? Một vị chú trọng niệm Tự Phật, nhưng không có Tha Phật làm sao liễu được Tự Phật? Niệm Tha Phật dường như thuộc về sự tướng, nhưng Lý do Sự hiển. Niệm Tự Phật dường như thuộc về lý tánh, nhưng Sự do Lý thành. Hiểu rõ điều này thì Tự và Tha chẳng hai, Sự và Lý như một, cùng trở về biển Tát Bà Nhã, cùng tiến nhập Bồ Đề giác đạo, đâu còn gì để luận định là giống hay khác!

Hơn nữa, trong kinh Đại Bi, Đại Sĩ dạy người tụng chú hãy “chí tâm xưng niệm danh hiệu ta” mà cũng “hãy chuyên niệm danh hiệu đức Bổn Sư của ta là A Di Đà Như Lai, rồi mới tụng chú”. Ngài còn đối trước đức Phật, tự thề rằng: “Tụng trì thần chú Đại Bi mà nếu chẳng sanh về các cõi Phật thì con thề chẳng thành Chánh Giác”. Đấy chính là “ức Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật” như Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói. Cần biết rằng: Đại Sĩ ứng hóa từ đầu đến cuối đều lấy Niệm Phật làm pháp chủ yếu. Trong phẩm Phổ Môn, Phật dạy hết thảy phàm thánh hãy niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, xét ra có khác gì niệm Phật đâu?

Phổ Đà Sơn ở phía Đông đất Chiết Giang chính là đạo tràng ứng hóa của Đại Sĩ, mà cũng là chỗ Đại Sĩ thuyết pháp cho Thiện Tài thuở ấy. Pháp sư Ấn Quang đã trụ tích tại núi ấy hơn ba mươi năm, do thấy Phổ Đà Sơn Chí bản cũ chưa từng nêu tỏ sự cảm ứng của Đại Sĩ nơi Bổn và Tích, thật đúng là bỏ gốc lấy ngọn, mua rương trả châu, thật đáng đau tiếc, tính đem những điều thuộc về Bổn và Tích của Đại Sĩ trong Đại Tạng và sự cảm ứng tại phương này soạn thành lời ca tụng và chú thích ý nghĩa của từng điều một, lại tập hợp những sự thuộc về Bổn Tích trong các kinh để làm chứng cứ, ngõ hầu hết thảy hữu tình đều cùng biết đến ân sâu bao kiếp của Đại Sĩ, sẽ đều thường niệm, cung kính, đều được mãn nguyện. Do sức không lo xuể, bèn cậy người bạn thân thiết là cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh biên soạn. May sao bản thảo đã hoàn thành, muốn sắp chữ in ra mấy vạn bản hòng lưu truyền khắp trong ngoài nước. Do vậy, tôi ghi lại nguyên do để thưa trình cùng các vị độc giả.

Giữa Hạ năm Giáp Tý, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Hoàng Khánh Lan (nguyên quán Thượng Hải) viết tại dinh Đạo Doãn đất Cối Kê

Từ Ngữ Phật Học Trong: Lời Tựa