Home > Kinh Sách Tịnh Độ > Tam-Dac-Chin-Tuan-Be-Quan-Niem-Phat

Tâm Đắc Chín Tuần Bế Quan
Niệm Phật

Phần Thượng


Hôm nay, Định Hoằng xin báo cáo cho quý vị về những tâm đắc khi tu học cùng với việc đã hoàn thành nhiệm vụ học giới mà Lão Hòa Thượng đã giao cho, Lão Hòa Thượng đã dạy pháp niệm Phật có ba khu niệm Phật đường.

Có khu nhiễu Phật, có khu bái Phật và khu tĩnh tọa, tùy theo của quí vị. Lần này Định Hoằng vừa mới kết thúc 90 ngày bế quan niệm Phật.

Khi bế quan cũng chính là dùng pháp ba khu vực của Lão Hòa Thượng. Đương nhiên trong phòng chỉ có một mình tôi. Có lễ Phật, có nhiễu Phật, có tĩnh tọa. Khi một mình dụng công như vậy thì phát hiện muốn niệm thuần thục câu A Di Đà Phật. Thật không dễ. Trước tiên chúng ta không bàn đến việc nhất tâm bất loạn, đấy là tiêu chuẩn cao.

Nhất tâm bất loạn, sự nhất tâm phải phục đoạn phiền não. Phục phiền não, phiền não ở đây là chỉ kiến tư phiền não. Người phục phiền não thì đây là công phu thành phiến. Người đoạn được phiền não, thì họ là thánh nhân rồi. Kiến tư phiền não đoạn rồi, thì tương đương A La Hán. Trong Viên giáo họ là Thất Tín Vị Bồ Tát trở lên.

Vậy, Lý nhất tâm bất loạn còn cao hơn nữa, là Pháp Thân Đại Sĩ. Đây là những gì chúng ta ngưỡng mộ, chúng ta mong muốn. Nhưng không thể miễn cưỡng. Nếu như chúng ta có thể tự mình phấn đấu đạt được đó chính là niệm thuần thục câu A Di Đà Phật này. Không được nhất tâm thì cũng nên cầu thành phiến trước.

Làm sao niệm được thành phiến? Trước tiên bắt đầu từ 10 câu. Ba thứ rõ ràng. Miệng niệm rõ ràng, A Di Đà Phật, bốn chữ này. Rõ ràng phân minh, không gấp gáp. Tai nghe rõ ràng, một câu phật hiệu A Di Đà Phật tai nghe rõ ràng. Tiếp theo câu thứ hai, A Di Đà Phật. Mười câu đều nghe rõ ràng. Đếm thầm trong tâm. Đếm, thì không cần đếm nhiều, đếm đến mười thôi. Có thể từ một đến mười. Nhưng việc này tư tưởng phải tập trung cao độ, nếu không sẽ không biết đếm đến năm hay sáu? Quên rồi, quên thì vọng tưởng sẽ xen vào. Tư tưởng bạn sẽ không tập trung, sẽ dễ đếm nhầm. Người trung căn đếm từ một đến mười không được. Vậy họ đếm từ một đến năm, lại từ sáu đến mười, chia ra hai lần như vậy. Người Hạ căn hai lần cũng không được, vậy thì chia làm 3 lần, ba ba bốn, ba câu ba câu rồi bốn câu, là mười. Định Hoằng là người hạ căn, nên phải đếm ba ba bốn. Pháp này tôi đã đếm hết mười mấy năm rồi, Lúc trước Lão Hòa Thượng không nhắc đến, trước đây thầy Hồ Tiểu Lâm cũng chưa nói đến phương pháp Thập Niệm này. Lúc trước có thấy qua lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam đã giới thiệu pháp niệm ba ba bốn này.

Vậy là bắt đầu niệm. Bế quan niệm phật cũng là ba; ba; bốn, từng đoạn từng đoạn, mà niệm như vậy. Ba; ba; bốn niệm hết một đoạn nhỏ như vậy thì qua một hạt chuỗi. 108 hạt chuỗi là dùng để đếm hoặc là dùng máy đếm. Ngài đại sư Ấn Quang trong Văn Sao có nhắc đến Pháp niệm này, nói là không cần đếm. Rất nhiều người hiểu lầm. Tưởng rằng tôi không cần chuỗi nữa. Thật sự là không phải như vậy. Không đếm là từ một đến mười không dùng chuỗi để đếm.

* Dùng tâm để đếm. Nhưng không đếm đến 11, 12. Không đếm trên 10, đếm từ 1 đến 10 là dùng tâm đếm. Vậy 10 câu đếm hết rồi, 10 câu tiếp theo đếm như thế nào? Cũng vẫn từ 1 đến 10. Nhưng lại lần qua 1 hạt chuỗi. Bạn không cần phải dùng tâm để nhớ, là 10 câu đầu tiên hay 10 câu thứ hai hay 10 câu thứ ba. Nếu tâm không đếm nổi, mà bạn phải niệm 1 vạn câu thì phải đếm 1000 lần 10 câu . Vậy làm sao để đếm? Phải dùng chuỗi hoặc là máy đếm. Việc đó thì không cần phải suy nghĩ nhiều, ngón tay cử động là được. Như vậy 10 câu không cần phải đếm 10 câu xong rồi đếm 1 lần, như vậy mới được. Nếu không như vậy, Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ niệm 14 vạn thì làm sao niệm. Bạn không đếm thì làm sao biết được? Tỉnh Am đại sư trước khi vãng sanh ngày đêm niệm 10

vạn phật hiệu niệm hết nửa năm, làm sao ông biết được. Đại sư Ngẫu Ích dạy chúng ta, nếu như mới nhập môn thì nên dùng chuỗi. Một ngày 30 ngàn hay 50 ngàn hay 100 ngàn. Cả đời không thay đổi Nếu không vãng sanh, thì chư Phật đều nói dối. Nguyên văn của Đại sư Ngẫu Ích là nói như vậy. Nếu như bạn không đếm thì làm sao biết được 30 ngàn hay 50 ngàn hay 100 ngàn.

Cho nên mọi người phải làm rõ hiểu lầm này. Khi bế quan tôi dùng phương pháp này. Một ngày bình quân 110 ngàn câu Phật hiệu. Khi mới bắt đầu thì rất vất vả. Từ sáng niệm đến tối. Lịch trình của tôi từ sáng thức dậy, đọc một lần 48 lời đại nguyện của Phật A Di Đà . Sau đó đọc 1 lần " Tây Phương Phát Nguyện Văn" thì bắt đầu niệm Phật đếm số. Dùng chuỗi niệm. Tay phải cầm chuỗi, 108 hạt chuỗi. Tay trái cầm máy đếm 10 câu thì lần qua 1 hạt, niệm hết 1 chuỗi tức là 1080 câu. Số lớn là nghìn câu, thì nhấn máy đếm một cái. Một nghìn nhấn một cái. Một ngày nhấn 100 cái là 100 ngàn. Phải đếm như vậy. Ngày đầu tiên 75 ngàn, niệm không nổi nữa. Ngày thứ hai, 80 ngàn Ngày thứ ba 90 ngàn, 100 ngàn, 110 ngàn, 120 ngàn. Đến mười ngày cuối cùng, mỗi ngày 160 ngàn. Trong 10 ngày cuối cùng đó, có 2 ngày, 1 ngày 220 ngàn, 1 ngày 215 ngàn. Tự mình phải nỗ lực tối đa đến như vậy. Niệm pháp này cứ niệm như thế, đối với sự lĩnh hội kinh Vô Lượng Thọ. So với lúc trước thì không giống nữa. Tín tâm đối với pháp môn Niệm Phật so với lúc trước thật sự là đã tăng lên rất nhiều.

Phẩm quan trọng nhất trong Kinh Vô Lượng Thọ, đó là Phẩm 48 Nguyện, Phẩm thứ 6. Thứ sáu, Phát Đại Thệ Nguyện. Phương pháp tu học của cả bộ kinh Vô Lượng Thọ cũng kiến lập dựa trên 48 lời đại nguyện của A Di Đà Phật. Pháp môn Tịnh Độ xuất phát từ 48 Đại

Nguyện. Đây là pháp môn Tha lực. Nương vào nguyện lực đại từ bi của A Di Đà Phật, cho nên phải thông suốt 48 lời đại nguyện. Niệm niệm không quên. Vậy, trong 48 đại nguyện có một nguyện là trọng tâm. Lão Hòa Thượng đã nói rất rõ cho chúng ta, đó là niệm thứ 18, nguyện Thập niệm tất sanh. Nguyện Thập niệm tất sanh này, chúng ta hãy đọc kinh văn trước. Không trở ngại thì cùng nhau chấp tay, cùng nhau niệm. "Khi tôi thành Phật, thập phương chúng sanh, nghe danh của tôi, chí tâm tín lạc, hết thảnh thiện căn, toàn tâm hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc, trong vòng thập niệm, nhược bất sanh giả, bất chứng Chánh Giác. Duy trừ ngũ nghịch, hủy báng chánh pháp.”

* Mỗi buổi sáng, mọi người đều tụng Kinh Vô Lượng Thọ, Nguyện Văn rất rõ ràng. Nguyện thứ 18 này, ý nghĩa của từng chữ không phức tạp. Nhưng chứa đựng ý nghĩa vô cùng thâm sâu. Trong lúc tôi bế quan niệm Phật, ngộ ra được điều này. Lúc trước rất nhiều lần đều không ngộ ra được ý nghĩa này. Ngộ ra được rồi, mới biết ý nghĩa lúc trước đã hiểu lầm. Bây giờ hiểu rồi, sửa lại rồi.

Vậy thì với nguyện này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu. A Di Đà Phật phát nguyện rằng, "Khi tôi thành Phật, thập phương chúng sanh", tất nhiên bao gồm cả thế giới ta bà của chúng ta. Cũng bao gồm cả thập phương thế giới, hết thảy các cõi của chư Phật. Bất kỳ một chúng sanh nào. Không chỉ là loài người chúng ta, chúng sanh trong lục đạo, chúng sanh trong thập pháp giới. Kể cả những loài sâu bọ côn trùng, kể cả trong giới Diêm Ma La, trong tam ác đạo. Cho đến hết thảy chúng sanh, kể cả thân trung ấm, những người vừa mới vãng sanh vẫn chưa đầu thai. Nếu như tại thời khắc này có nhân duyên, nghe danh hiệu tôi. Tức là nghe được vạn đức hồng danh của A Di Đà Phật.

Đương nhiên, nghe danh không có nghĩa là nghe thoáng qua. Nghe rồi phải hiểu được ý nghĩa bên trong. Đây gọi là Văn mà Tư. Sau khi hiểu được ý nghĩa rồi, phải y giáo phụng hành. Do Tư mà Tu. Cho nên, nghe danh hiệu tôi bao gồm Văn; Tư; Tu tam tuệ. Nếu nghe mà không hiểu ý nghĩa. Nghe mà không hiểu, xem như chưa từng nghe. Đương nhiên không thể nói chưa nghe qua, nghe rồi vẫn trồng được thiện căn. Trong a lại da thức, gieo một hạt giống kim cang. Vô lượng kiếp sau, hạt giống này sẽ trưởng thành. Giúp người đó vãng sanh thành Phật.

Chúng ta không bàn vấn đề vô lượng kiếp sau nữa. Vấn đề chúng ta quan tâm là, ngay trong đời này được vãng sanh Tây phương. Tôi cũng không muốn đợi đến khi Di Lạc hạ sanh mới vãng sanh. Ngay đời này phải được độ. Có người nói, Phập pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, có tam quy y, tin Phật rồi, nghe pháp rồi. Cho dù đời này không thành tựu, Di Lạc Bồ Tát hạ sanh, trong Tam Hội Long Hoa, bạn cũng có thể khai ngộ chứng quả. Đúng không quý vị? Tất nhiên đúng rồi. Nhưng bạn phải đợi 56 ức bảy ngàn vạn năm. Trong lúc này, bạn khó tránh khỏi bị đọa lạc. 50 ức năm cũng sẽ ở trong tam đồ, hoặc lâu hơn. Nên cái khổ này thật sự rất lớn. Chúng ta không đợi nữa, đời này phải vãng sanh.

Cho nên "nghe danh hiệu tôi". Bạn phải xem lại kinh Vô Lượng Thọ. Học Kinh Vô Lượng Thọ, và Kinh A Di Đà. Hai loại kinh này cùng một bộ, quyển lớn, nhỏ, nghĩa lý, phương pháp, cảnh giới hoàn toàn tương đồng. Quyển lớn nhỏ khác nhau, chỉ là độ dài khác nhau. Như vậy, nghe danh hiệu A Di Đà Phật, cái gì gọi là nghe? Vừa rồi đã giảng rất rõ ràng. Văn phải tư, tư phải tu. Nói cách khác, nghe danh hiệu tôi nhất định phải chí tâm tín lạc. Nguyện sanh ngã quốc, trong vòng thập niệm. Đây gọi là tín, nguyện, hạnh. Hạnh tức là trong vòng 10 niệm trì danh hiệu Phật.

* Bạn xem, tất cả lý luận của Tịnh Tông đều kiến lập dựa trên nguyện 10 niệm tất sanh. Trong " Kinh A Di Đà Yếu Giải", Ngẩu Ích đại sư có diễn giải thế này. Cho chúng ta hiểu được, Tông chỉ, tông yếu của việc tu hành của Kinh A Di Đà chính là Tín Nguyện Trì danh. Đây là lý luận thiên cổ, vĩnh viễn không thay đổi. Tịnh tông chính là pháp môn Tín Nguyện Trì danh. Tín Nguyện Trì danh cũng không phải Đại sư Ngẫu Ích sáng tạo ra, là A Di Đà Phật sáng lập ra. Nguyện thứ 18 đã nói rất rõ điều này. Sau khi “Nghe danh của tôi ”, bạn chí tâm tín lạc. Nguyện là hoan hỷ, yêu thích. Hết thảy thiện căn đều thành kính hồi hướng, “nguyện sanh ngã quốc”. “Nguyện”, trong vòng 10 niệm, 10 niệm này chính là 10 câu hồng danh, trì danh niệm phật. Tín Nguyện Trì danh. Việc này so với

Kinh A Di Đà thì rõ ràng hơn rất nhiều. Nếu như không có lòng chí tâm Tín Nguyện Trì danh, nói cách khác, bạn còn chưa đạt đến tiêu chuẩn

“Nghe danh”, hoặc có thể nói bạn “Nghe danh” vẫn chưa đủ. Bạn “nghe danh” đủ rồi, nhất định sẽ chí tâm tín lạc, “nguyện sanh ngã quốc, trong vòng 10 niệm, nếu không vãnh sanh, không thành chánh giác”. Bạn đã nắm chắc được cơ hội vãng sanh. Cơ hội này đương nhiên không phải do khả năng công phu của bản thân, bản thân vẫn còn là phàm phu sát đất, vẫn phải nhờ vào A Di Đà Phật mới nắm chắc. Lời nguyện này của A Di Đà Phật bảo đảm cho bạn, trong tâm của bạn sẽ an định thôi. Đây là pháp môn Tịnh Độ Tâm An, khiến quý vị an tâm.

Quý vị biết rằng bản thân chắc chắn vãng sanh. Vậy bây giờ tự hỏi bản thân mình xem, đừng nhìn người khác. Quý vị có nắm chắc cơ hội vãng sanh Tây phương không? Giả dụ câu trả lời là tôi chắc chắn có, tôi sẽ được vãng sanh, một chút hoài nghi cũng không có. Vậy thì chúc mừng quý vị, điều này là phải thật, không phải giả. Cũng không phải là ngạo mạn, cho rằng tôi nắm chắc vãng sanh, thực chất vẫn chưa nắm chắc, đấy là ngạo mạn. Tuy là không phải muốn gạt người, nhưng quý vị vẫn có lỗi. Lỗi này sẽ trở thành chướng ngại khi bạn tu đạo, thậm chí bị thoái chuyển. Nếu như là lừa gạt người khác, thì chính là đại vọng ngữ, tương lai nhất định đọa vào ác đạo.

Nếu như trả lời không được chắc như vậy, sẽ không dám đồng ý.

Hình như tôi vẫn chưa nắm chắc được, vấn đề này cần phải được giải quyết nhanh chóng. Như Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ giảng, nhân trời còn sáng, hãy mau đi về nhà. Bây giờ quý vị chưa đến phút lâm chung, nhanh chóng giải quyết vấn đề này đi, không được trì hoãn. Vậy thì cần phải làm rõ ý nghĩa thâm sâu trong lời nguyện 10 niệm vãng sanh này, hiểu rõ rồi quý vị sẽ biết được rốt cuộc bản thân mình có nắm chắc việc vãng sanh hay không? Không nắm chắc, quý vị liền biết được. Tôi làm sao để nắm chắc được việc vãng sanh?

Vì vậy, hôm nay, bài giảng buổi sáng và buổi chiều, tôi muốn giúp quý vị thật sự hiểu rõ. Nắm chắc rồi, trong tâm sẽ an định. Chưa nắm chắc, thì trong tâm cũng biết làm gì để nắm chắc, sẽ nhanh chóng nắm chắc được. Nên hai bài giảng này không vô ích. Được rồi, chúng ta cùng phân tích xem, “chí tâm tín lạc, trong vòng 10 niệm”, đây là nguyện văn, chính là “chí tâm tín lạc nãi chí thập niệm”. “Tín”, như thế nào được gọi là tín?

* Đại sư Ngẫu Ích trong Di Đà Yếu Giải đã nói đến lục tín, nói vô cùng viên mãn. Hội đủ sáu niềm tin, được gọi là tín. Thứ nhất tin chính mình, thứ hai tin người, thứ ba tin sự, thứ tư tin lý, thứ năm tin nhân, thứ sáu tin quả. Chính mình; người; Sự; Lý; Nhân; Quả. Đầy đủ sáu niềm tin này, gọi là tín.

Cái gì gọi là tin chính mình? Tin chính mình có nhiều người nói rằng đây là tự tin, nhưng không giống như vậy. Nói rằng người nào đó rất tự tin, người khác thì tự ti. Người đó nói về tự tin là tin bản thân mình, Đây là loại vọng tâm do duyên theo ảnh của sáu trần., còn tin vào sự hình thành xác thịt từ ngũ ấm. Cái thân tứ đại, cái thân tâm này không thể tin, không thể nương nhờ. Tại sao vậy? Bởi vì nó là hư ảo, vô thường. Làm sao có thể tin tưởng nương nhờ được chứ? Đem những thứ này tách ra, đem thân tâm của bạn, thế giới của bạn, những thứ hư ảo này tách ra. Chỉ tin thứ mà vốn mình sẵn có đầy đủ, vốn không sanh diệt, vốn tự thanh tịnh, vốn không dao động, khả năng sanh vạn pháp của tự tánh. Đây gọi là tin chính mình.

Tự tánh không có cũng không không. Không ở bên trong cũng không ở bên ngoài, không ở chính giữa. Thất xứ vi tâm của A Nan vẫn chưa tìm được nơi này, rất huyền diệu. Quý vị nói nó có, nhưng lục căn không duyên theo được. Mắt không thấy được, tai không nghe được, mũi không ngửi được, lưỡi không nếm được, thân thể cũng không cảm giác được. Kể cả ý nghĩ cũng nghĩ không ra. Thật vi diệu! Lục căn không thể nào tìm được. Bất khả tư, bất khả nghị, bất khả thuyết. Như vậy rốt cuộc có hay không có. Không thể nói là có, cũng không thể nói là không có.

Bạn nói nó không có, vậy thập phương hư không pháp giới, bao gồm cả thân và tâm của quý vị đều do tự tánh hiển hiện ra hết. Có khả năng tạo vạn pháp. Thập phương pháp giới cũng từ đó được tạo ra, làm sao có thể nói là không có. Nếu như không có thì thập phương pháp giới cũng chẳng có. Bây giờ có thập phương pháp giới, vậy thì phải có tự tánh. Cho nên chỉ có thể nói, không có cũng không không. Nói sâu hơn nữa, không phải không có, cũng không phải là không không. Đây là “Li tứ cú, tuyệt bách phi”. Càng nói càng huyền diệu. Đơn giản mà nói, bất khả tư nghị. Bất khả tư nghị này không phải là hí luận, mà là lời nói chân thật. Không thể dùng tư tưởng của mình suy nghĩ, càng không thể dùng ngôn ngữ diễn tả. Nhưng dựa vào tín tâm của quý vị, tin lời Phật thuyết. Ai ai cũng vốn có tự tánh chân thật đầy đủ. Đó là nguồn gốc của vạn pháp vũ trụ. 24.

Tôn giáo phương tây nói đến tạo hóa, đó chính là tự tánh. Thế giới Ta bà là nó tạo ra. Địa cầu, Diêm phù đề của chúng ta cũng là nó tạo ra. Cực lạc thế giới cũng là nó tạo ra. Thập phương quốc độ của Chư Phật củng do nó tạo thành. Tâm của quý vị đang tạo lập. Nó biến hiện ra những thứ lớn vô biên, nhỏ vô tận. Lớn đến cỡ nào? Bao gồm cả thập phương pháp giới. Thập phương pháp giới cũng không thể thoát ra khỏi tự tánh. Gọi là ngoài tâm không pháp. Nhỏ đến vô tận, nhỏ như hạt vi trần.

Hiện nay các nhà lượng tử vật lí học đã nghiên cứu ra hạt nhỏ nhất gọi là trung vi tử, nhỏ bằng một phần tỷ hạt điện tử, nhỏ đến như vậy. Hạt điện tử đã rất nhỏ, chúng ta cũng không thể tưởng tượng ra. Điện tử là hạt quay xung quanh nhân trong nguyên tử. Trên thực tế bạn không thể quan sát được hình thể của nó, bạn chỉ có thể dùng những con số trong toán học để mô tả về nó, đại khái là có một hạt như vậy tồn tại. Bởi vì nó chuyển động rất nhanh, gần bằng tốc độ ánh sáng. Căn bản là không thể sờ nắm được. Vậy còn có hạt nhỏ hơn gấp 1 tỷ lần hạt điện tử, đó chính là trung vi tử nhỏ bằng một phần tỷ hạt điện tử. Điều này càng không thể nghĩ bàn. Hạt Trung vi tử này nhỏ đến hạt nhỏ nhất, bây giờ đã tìm ra hạt nhỏ nhất, bên trong của nó là tự tánh. Chẳng khác nhau chút nào, nhỏ đến vô tận. Tự tánh có ở trong hạt nhỏ nhất. Lớn như thế giới, nhỏ như vi trần, cũng đều là tự tánh hiện ra, phải tin điều này.

Cực lạc thế giới vốn là tự tánh tạo thành. Vậy chúng ta làm sao có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc? Phải tìm về với tự tánh. Tự tánh còn gọi là chân tâm. Vì vậy niệm phật chính là hướng đến tự tánh, niệm đến tâm thanh tịnh rồi, thì tự tánh sẽ hiện ra. Tại sao bây giờ không thấy thế giới Cực Lạc, không thấy A Di Đà Phật? Là do vọng tưởng của chúng ta. Vọng niệm làm cho mắt của chúng ta bị chướng ngại, sáu căn đều bị chướng ngại. Mắt không nhìn thấy Di Đà; Quán Âm; Thế Chí, Thanh Tịnh Hải Chúng, còn có Bảo trì liên hoa, đều không nhìn thấy. Tai không nghe được Di Đà thuyết pháp. Cực lạc thế giới, toàn bộ tiếng chim tiếng gió đều không nghe được. Nghe không được. Mũi cũng không ngửi được Bảo hương ở Cực lạc. Thế giới cực lạc tất cả vạn vật đều được tạo ra từ bảo hương. Hương thơm này lan tỏa thập phương thế giới, cũng lan tỏa đến đây, tại sao bạn không ngửi được. Đó là do vọng tưởng chướng ngại bạn. Vậy làm sao vọng tưởng có thể chướng ngại việc ngửi của chúng ta? Thực chất nó không thể chướng ngại sáu căn của quý vị. Mà do sáu thức tự tạo ra chướng ngại.

Tôi đưa ra ví dụ đơn giản thế này, lấy nhĩ căn nhĩ thức để nói.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, 25 Viên Thông, nhĩ căn viên thông của Quán Thế Âm bồ tát được xếp ở cuối cùng, pháp đặc biệt. Văn Thù bồ tát lựa chọn viên thông đối với chúng sanh trong thế giới ta bà, đã chọn nhĩ căn viên thông. Bởi vì chúng sanh thế giới ta bà có nhĩ căn rất nhạy bén. Tai thông minh nhất. Cho nên dùng tai để nói thì sẽ hiểu. Bây giờ tai của quý vị, quý vị có nghe thấy tôi đang thuyết pháp, đúng không? Nghe có rõ không? Quý vị có nghe được tiếng sửa chữa ở kế bên không? Tiếng va đập bên đó có nghe được không? Nghe được rồi phải không? Bây giờ tôi nhắc thì quý vị mới nghe được. Lúc nãy thì sao, lúc nãy hình như không nghe được. Tại sao quý vị không nghe được. Tại vì quý vị đang tập trung nghe tôi thuyết pháp. Nên những tiếng động xung quanh như tiếng va đập, tiếng dây điện, quý vị không nghe được. Nghe không được không phải là không có âm thanh. Bên đó có âm thanh đấy, nhưng do quý vị không tập trung vào bên đó thôi. Quý vị tập trung vào bài thuyết pháp. Như vậy tập trung nghe thuyết pháp là quý vị dùng nhĩ thức. Tác dụng của nhĩ thức.

Nhĩ Căn? Tác dụng của nhĩ căn rộng khắp mười phương. Tiếng va đập quý vị nghe được đấy, nhưng không chú ý, nên hình như là không có. Hiểu ra chưa? Ý nghĩa là như vậy.

* Thế giới cực lạc ngày nay, tôi nói cho quý vị biết, rõ ràng ngay trước mắt. Bạn có tin không? Quý vị nói là không nhìn thấy. Không nhìn thấy vì nhãn thức của bạn đang chướng ngại bạn. Nhãn căn của quý vị sẽ không bị chướng ngại. Căn của tánh tức là tự tánh. Chướng ngại không được, đó chẳng qua là nhãn thức của quý vị thôi. Nhãn thức là từ phân biệt chấp trước mà ra. Vọng tưởng phân biệt chấp trước mới có thức.

Không còn vọng tưởng phân biệt chấp trước, vậy thì đã chuyển từ thức thành trí.

Chuyển từ thức sang trí dùng căn của tánh. Lúc đấy, quý vị có thể nhìn thấy mười phương. Mắt nhìn thấy mười phương, không chướng ngại. Tai nghe được 10 phương, không chướng ngại. Mũi ngửi được mùi hương 10 phương. Thân thị hiện ở 10 phương. Không có chướng ngại. Tâm, tha tâm biến tri cũng không có chướng ngại. Bây giờ, có thức làm mọi thứ đều bị chướng ngại. Quý vị có thể nhìn, cùng lắm là khu vực 30 mét xung quanh. Xa hơn thì không thấy nữa. Tai, có thể nghe được âm thanh tối đa 1000 mét. Những thứ căn bản khác thì không được. Cho nên chúng ta niệm Phật, mục đích là niệm ra được tự tánh của chúng ta. Bởi vì thế giới Cực Lạc vốn đã có sẵn trong tự tánh. Có câu người sanh nhất định sanh, người đi thật không đi. Quý vị vãng sanh Tây phương rồi, Phật tùy thuận căn tánh nghe nhìn của chúng ta, nói rằng đi đến thế giới này là mười vạn ức quốc độ Phật, có thế giới gọi là Cực Lạc. Nơi này có Phật hiệu A Di Đà, hiện đang thuyết pháp. Điều này là tùy thuận phàm phu chúng ta mà nói. Phàm phu luôn có một cảm giác về khoảng cách. Nếu như nói Thế giới Cực Lạc ở ngay trước mắt, quý vị không tin, nói không nhìn thấy. Mắt nhìn không thấy, tôi nói không thấy, không tin được. Vì vậy, đức Phật chỉ còn cách tùy thuận chúng ta, nói rằng 10 vạn ức quốc độ Phật. Đi đến nơi này ở phía Tây, thực chất là chỉ một phương hướng thôi. Có thật hay không? Đương nhiên là thật rồi. Như vậy Thế giới cực lạc đến nơi này, cách nơi này về hướng Tây 10 vạn ức quốc độ Phật, thế giới đó, là cõi Phàm thánh đồng cư. Nên có khoảng cách, có phương hướng. Tùy thuận theo sự chấp trước của phàm phu. Nếu Đức Phật nói Thế giới cực lạc ngay trước mắt, Cực Lạc Tịnh Độ tức nơi này, nơi này tức Tịnh Độ. Đây là lời nói chân thật, không phải tùy thuận theo tục đế mà nói. Tùy thuận theo Chân đế nói. Điều đó nói gì? Cõi Thực Báo Trang Nghiêm, Cõi Thường Tịch Quang và 4 cõi của thế giới Cực Lạc đều ở cùng nhau. Nên chúng ta đến Cực Lạc thế giới, cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng như là đã đến cõi Phương Tiện, cõi Thực Báo, cõi Thường Tịch Quang. Cho nên, hiện nay chúng ta niệm Phật không cần quan tâm sau này đến nơi nào, quý vị cứ nhất tâm mà niệm, niệm đến tự tánh hiển hiện. Vậy thế giới Cực Lạc sẽ hiện tiền. Niệm đến đoạn phiền não, cõi Phương Tiện liền hiện tiền. Niệm đến đoạn vô minh, vọng tưởng cũng không còn, cõi Thật Báo Trang Nghiêm liền hiện tiền, cõi Thường Tịch Quang liền hiện tiền.

Những phiền não này chưa đoạn, nhưng niệm đến công phu thành phiến. Hoặc ở trong định, hoặc trong mộng, cõi Phàm Thánh Đồng Cư liền hiện tiền. Phải ở trong định hay trong mộng mới nhìn thấy được. Tại sao vậy? Vì khi đó tâm mới thanh tịnh, mới cảm ứng đạo giao được với Phật. Lúc bình thường không nhìn thấy được vì phiền não chưa đoạn trừ. Thật sự đã đoạn hết rồi, lúc đó muốn thấy sẽ thấy, muốn nhập sẽ nhập.

Đông hay Tây có thể tự do đi lại, không có chướng ngại. Thân ở trong hoa sen trong Hồ bảy báu của thế giới Cực Lạc, ở thế giới này vẫn có thể làm nhiều Phật sự. Thật là thù thắng. Đây là siêu phàm nhập thánh. Nhưng lý này chúng ta cần phải hiểu. Hiểu rồi thì thành thật mà niệm Phật. Quý vị có thể thành thật mà niệm mới gọi là tín.

Quý vị nói là tôi đã tin, nhưng lại không niệm Phật, như vậy là tin giả. Bạn thật sự tin lại không niệm Phật ư? Công đức thù thắng thế này quý vị cũng không cần sao? Quý vị không cần có nghĩa là quý vị vẫn chưa tin. Nên hãy kiểm tra xem bản thân mình có thật lòng tin hay không?

Phải nhìn từ đâu? Đó chính là quý vị có thành thật niệm Phật hay không? Tín, có muốn tự tánh hiển hiện không? Có muốn làm Phật không? Muốn rồi thì tin, tin chính mình. Tốt, bây giờ nếu muốn minh tâm kiến tánh, muốn thành Phật rồi. Muốn, thì phải làm sao?

Điều thứ hai, tin Người. Chúng ta tuy là vốn có đầy đủ tự tánh, nhưng hiện tại phiền não nghiệp chướng vẫn còn, thậm chí còn rất nặng, lại trong thời mạc pháp ngũ trược ác thế, pháp nhược ma cường. Bản thân lại nhiều phiền não, nghiệp chướng nặng sâu, phước đức mỏng manh, trí huệ thấp kém. Dựa vào tự lực rất khó. Nên Đức Phật khuyên chúng ta cầu sanh Tịnh Độ. Pháp môn này dựa vào Tha Lực. Tha Lực trợ giúp chúng ta thì dễ rồi. Bởi vậy phải tin người. Điều đầu tiên, tin Đức Phật Thích

Ca Mâu Ni đã tuyên thuyết pháp môn Tịnh Độ, đó chính là Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ. Đây là hai bộ kinh điển mà chúng ta cần cả đời phụng hành. Hãy thường niệm thường tụng, thường xuyên tư duy, thường lắng nghe ý nghĩa bên trong. Nghe Kinh nghe Pháp. Hiểu ra rồi, phải dựa vào A Di Đà Phật. Bản thân mình phải phát tâm chí thành khẩn khiết. Thành tâm sám hối nghiệp chướng của mình từ vô thỉ đến nay. Khẩn cầu Phật lực từ bi gia hộ. Phát nguyện cầu sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tùy thuận nguyện lực của A Di Đà Phật. A Di Đà Phật thì mong muốn chúng ta vãng sanh Tây Phương, chúng ta phải tùy thuận theo. Chúng ta không nên khách sáo, nói rằng Cực Lạc Thế giới tốt như vậy, tôi không dám đến, tôi không có tư cách đến. Cần gì phải khách sáo chứ, A Di Đà Phật bảo chúng ta đến thì chúng ta cứ đến thôi, hãy chấp nhận đi. Tôi đến là để thành Phật. Bản thân tôi không thể tự đi, A Di Đà Phật đến giúp tôi đi, lâm chung đến tiếp dẫn. Điều này rất đáng tin. Toàn thân tâm đều quy mạng A Di Đà Phật. Thế giới này cả thân tâm và hết thảy phải buông xả. Không nên lưu luyến nữa, tâm không nên bận tâm nữa. Những nhân ngã; thị phi; ân oán; tình thù. Tất cả đều bỏ hết. Tại sao? Vì đây chỉ là một giấc mộng. Giả thôi, không phải thật. Đời người như một giấc mộng trống không.

* Trong lúc bế quan, tôi cũng đã nằm mơ như vậy. Mơ về lúc trước tôi giảng dạy ở trường Đại Học ở Mỹ. Tôi dạy Tài Chính, Kinh Tế học. Lúc đấy, người thanh niên vẫn còn theo đuổi sự nghiệp. Thời gian đó tôi rất nỗ lực trong học thuật. Đã đăng hơn hai mươi bài báo học thuật, có không ít đều nằm trong các tạp chí học thuật hàng đầu. Khi ấy nghĩ rằng phải nằm trong các tạp chí Kinh Tế đứng đầu, tức là những trang liên quan đến Giải Nobel Kinh Tế, những nơi đăng các bài báo như vậy. Trong mộng tôi gặp được một giáo sư rất nổi tiếng. Ông có thành tựu rất nổi bật về lĩnh vực học thuật. Tôi với ông ấy phan duyên, còn làm quen nhau, và hợp tác viết báo. Trong mộng có cái tâm thái này. Đột nhiên tỉnh dậy, cười giòn một phen. Bây giờ còn muốn đăng những bài báo đó nữa không? Chắc chắn là không. Đã xuất gia rồi, làm việc đó làm gì nữa?

Nhưng thật sự trong mộng tôi rất muốn, đấy là do lúc trước tạo nghiệp. Ngày trước đúng là có muốn như vậy, đúng là đã khởi tâm động niệm. Thật sự xem những việc đó là thật để theo đuổi. Vì vậy niệm niệm đều theo đuổi tạo nên nghiệp. Nghiệp lực này rất mạnh. Khi tâm bạn thanh tịnh rồi thì nghiệp này sẽ hiện tiền, sẽ hiện ra trong mộng. Bạn mơ như vậy còn không giác ngộ, còn tiếp tục tạo nghiệp, trong mộng lại tạo thêm một nghiệp nữa. Lại niệm niệm theo đuổi sự nghiệp đó. Rất đáng thương. Vì thế quý vị cả đời này theo đuổi một thứ gì, và cũng rất muốn làm việc gì đó. Quý vị hằng ngày làm những công việc này, đều hình thành nghiệp của quý vị.

Nếu như là thiện nghiệp, tương lai quý vị sẽ sanh lên cõi trời, cõi người hưởng phước. Nếu như là nghiệp ác, tương lai quý vị sẽ thọ báo trong tam ác đạo. Rất đáng thương, không giác ngộ. Một ngày nào đó, quý vị đột nhiên tỉnh mộng, quý vị sẽ nhận ra những theo đuổi đó chỉ là hư vô, hoang đường. Tất cả chỉ là mộng, quý vị theo đuổi thứ gì chứ? Cho nên khi hiểu ra rồi, liền buông xả. Sau khi tôi tỉnh mộng, nghĩ lại mình không được tạo thêm nghiệp nữa. Không được tạo thêm nghiệp nghĩa là gì? Không nên theo đuổi bất kỳ thứ gì ở thế giới này, không nên nghĩ mình muốn làm gì nữa, và cũng không nên nghĩ mình sẽ đạt được những gì. Những thứ đó đều là giả, đều là ảo ảnh hư vô. Hiểu ra rồi, giác ngộ rồi. Tức thì niệm Phật sẽ đắc lực. Trong kinh Viên Giác có nói “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”. Quý vị biết những thứ trước mắt ở thế gian đều là mộng huyễn, lập tức giác ngộ, rời khỏi nó ngay, buông xả rồi. Chỉ sợ quý vị nhìn không thấu, không thể buông xả. Nhìn thấu rồi quý vị không cần phải cắn răng, không cần phải cứ khổ tâm như, tự nhiên liền buông bỏ. Quý vị thấy tôi trong mộng vẫn theo đuổi, khi tỉnh lại không phải tự nhiên buông xả rồi hay sao? Không cần cắn răng, không cần phải khổ công như vậy, không cần đâu. Tự nhiên là buông xả được thôi. Hiểu ra rồi, tôi sẽ không theo đuổi nữa. Nếu quý vị chưa chịu buông xả, chẳng có gì khác, chính là vẫn chưa hiểu, chưa nhìn thấu. Vậy phải làm sao? Nghe pháp nhiều, huân tập giúp quý vị nhìn thấu buông xả. Đương nhiên phải nổ lực niệm Phật, nổ lực niệm Phật thì tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng tiêu rồi giúp quý vị buông xả. “Ly huyễn tức giác”, buông xả ngay, lập tức sẽ giác ngộ. Không cần qua giai đoạn nào cả.

Chúng ta thành Phật cũng phải buông xả như vậy.

Trong lúc tôi bế quan, khi tỉnh lại, cười giòn một phen. Thích Ca Mâu Ni Phật khi đại triệt đại ngộ, Ngài cũng cười đấy. Lạ thay lạ thay, chúng sanh vốn có trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước không chứng đắc. Cảm giác đó của Ngài so với cảm giác khi tôi tỉnh lại trong lúc bế quan cũng gần giống nhau, nhưng thù thắng hơn tôi. Ngài cũng có ý nghĩa như vậy. Quý vị trước khi thành Phật đều mê hoặc điên đảo, đó là vì quý vị chưa nhìn thấu chưa buông xả. Quý vị một khi nhìn thấu buông xả rồi sẽ thành Phật. Thành Phật rồi cũng sẽ cười như vậy. Thì ra là như vậy. Lúc trước thật oan uổng, mê hoặc điên đảo, tạo nghiệp thọ báo. Vô lượng kiếp ở trong sanh tử luân hồi, thật oan uổng. Bây giờ hiểu ra rồi, ly huyễn tức giác. Không đi qua giai đoạn nào cả. Phật nói trong Kinh Hoa Nghiêm, 42 địa vị Bồ Tát. Trong giáo nghĩa của Thiên Thai nói đến Tạng Thông Biệt Viên. Trong Viên Giáo còn có

52 địa vị Bồ Tát. Đấy đều là phép nói phương tiện. Nói thật ra là ngay khi giác ngộ thì tỉnh lại ngay. Đương nhiên, địa vị này cũng phải nói, nếu không nói, thực tế quý vị muốn giác ngộ nhưng vẫn không thể giác ngộ được. Vẫn phải từ từ giác ngộ. Chúng ta tu Tịnh Độ cũng nhờ vào Tha Lực, nhờ A Di Đà Phật. Hiện giờ chưa giác ngộ, không sao. Nhất tâm niệm A Di Đà Phật, một khi đến Thế giới Cực Lạc, hoa khai kiến Phật thì giác ngộ ngay. Hoa khai kiến Phật, hoa này không phải nói là thật sự có hoa sen. Đương nhiên tại cõi Phàm Thánh Đồng Cư có hoa sen. Đây là biểu Pháp. Trên thực tế, hoa sen này là chỉ tâm của chúng ta. Tâm của chúng ta chưa nở, nở rồi thì gọi là hoa. Không phải là có một câu nói

“Tâm hoa nộ phóng” sao? Có nghĩa là nói quý vị rất hoan hỷ, rất vui mừng. Tâm đã mở rồi. Thật sự có tâm hoa không? Đem đóa hoa đó đến đây đưa tôi xem nào. Không có hoa đâu, đấy là tượng trưng, là biểu Pháp thôi. Thế giới Cực Lạc hoa khai kiến Phật chính là ý nghĩa này.

Cho nên có nhiều hiểu lầm nói Tịnh Độ khi vào trong hoa sen thì bị khóa lại, bị nhốt lại. Ở trong đó rất buồn, ở rất lâu rất lâu cũng không ra được. Quá khổ, nên không chịu vãng sanh. Cái gì mà hoa khai kiến Phật?

Như ngồi tù vậy. Thật sự không phải ý nghĩa như vậy. Hoa đó là tâm hoa, tâm hoa nở rồi, quý vị giác ngộ rồi thì sẽ gặp Phật. Gặp vị Phật này chính là thấy Phật tự tánh của mình. Không phải là nhìn thấy vị Phật 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. Quý vị thấy là thấy bản tánh của mình, là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Vậy tôi nương nhờ A Di Đà Phật, Tha Lực. Đến Thế giới Cực Lạc đó chính là quay về với tự tánh. Thế giới Cực Lạc chính là Pháp Tánh độ. Cho nên có một số người không tin Tịnh Độ. Họ tin cái gì? Thí dụ họ tu Thiền. Tu thiền cũng do một số nguyên nhân lịch sử. Đối với pháp môn Tịnh Độ hầu như khăng khăng nghi ngờ. Họ nghĩ đây là vọng tưởng. Tịnh Độ là vọng tưởng, niệm Phật là không cần thiết. Chúng ta ngộ rồi, ngay lập tức thành Phật. Không chịu niệm Phật, không cầu vãng sanh Tịnh độ. Thật sự có loại người như vậy, trong tịnh xá chúng tôi cũng có. Đương nhiên cũng là người rất tinh tấn, nhưng họ chưa có viên dung.

50 Nếu quý vị cho họ xem thử, bản ghi chép kinh A Di Đà của Đại sư Liên Trì, kinh A Di Đà Yếu Giải của Đại Sư Ngẫu Ích. Những thứ này có thể hiểu rõ. Chúng ta niệm Phật, Phật chính là tâm. Người tham thiền chính là ngộ ra tâm của mình. Tâm này không phải là tâm vọng niệm của mình, cái đó gọi là Duyên Lự Tâm. Tam thời hệ niệm gọi là Duyên Lự Tâm. Tâm đó không phải chân tâm. Chân tâm là Linh Tri tâm. Người tham thiền là người tham thấu được cái tâm này, liền minh tâm, minh tâm thì sẽ kiến tánh. Quý vị phải biết, Phật chính là tâm, tâm chính là Phật. Cho nên quý vị minh tâm với gặp Phật là giống nhau. Gặp Phật tức là minh tâm, minh tâm tức là gặp Phật. Quý vị tại sao phải tách rời tâm và Phật. Minh tâm mà không gặp Phật, vậy bạn vẫn chưa có minh tâm. Tịnh độ của chúng ta, gặp Phật tức là minh tâm. Chưa minh tâm thì chưa gặp Phật. Tâm và Phật không phải hai. Cho nên họ chỉ muốn minh tâm, không chịu niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ. Thực tế là họ đã biến Tâm và Phật thành hai thứ rồi. Không phải không hai, không tương ưng với tâm. Tương ưng thì tâm chính là Phật, Phật chính là tâm, đây gọi là tương ưng. Họ chỉ tin là tâm tức là Phật, nói là tôi minh tâm sẽ gặp Phật. Họ không biết được Phật chính là tâm. Cho nên tôi niệm Phật chính là niệm tâm. Gặp Phật chính là minh tâm. Họ chỉ biết một nửa, còn nửa kia chưa biết. Cho nên tự mình gây chướng ngại cho mình.

Học Tịnh Độ chúng ta phải nhẫn. Họ không hiểu được, chúng ta giúp họ giải thích, thì họ sẽ hiểu. Nói như vậy hình như tham thiền so với niệm Phật càng thù thắng hơn. Đại sư Ngẫu Ích từng nói qua một câu như vầy. Bởi vì tham thiền có rất nhiều người. Còn niệm Phật thì là ai? Bạn niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật. Vậy niệm Phật là ai? Chư vị Tổ sư có một điển cố như vậy. Là một học trò, người đó tu như thế nào? Người đó rất cố gắng niệm A Di Đà Phật, niệm đến công phu thành phiến. A Di Đà Phật 24 tiếng không gián đoạn nhưng vẫn chưa khai ngộ. Tổ sư nhìn thấy người đó, và nhắc nhở cho họ. Niệm Phật là ai? Người đó liền từ câu Phật hiệu hồi quang phản chiếu. Thì ra là chân tâm đang niệm. Một phút chuyển lại thì minh tâm kiến tánh. Kiến tánh thành Phật. Người đó đã công phu niệm Phật thành phiến, Tổ sư mới đến nhắc nhở. Công phu chưa thành phiến, Niệm phật là ai. Đó là khởi vọng tưởng không phải tham thiền. Như Đại sư Ngẫu Ích đã nói, bạn muốn tham thiền “niệm Phật là ai”, như vậy đã là người hạ căn. Tổ sư làm như thế, cũng vì nhắc nhở người hạ căn. Người thiện căn chân chính là Đế tín, tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ nói cho chúng ta biết cái nguyên lý này. Nguyên lý niệm Phật chính là đây. Là tâm làm Phật. Tâm này của quý vị không cần biết là chân tâm hay vọng tâm, chỉ cần tôi muốn thành Phật là được. Cứ cho là có vọng tâm mà muốn thành Phật, thành Phật thì vọng tâm cũng chuyển thành chân tâm. Chân vọng vốn dĩ hòa hợp không phải hai. Không phải ngoài chân tâm ra còn một cái vọng tâm, không phải vậy. Nếu như ngoài vọng tâm, còn có một cái chân tâm thì chân tâm đấy không thể biến khắp nơi. Vọng tâm chính là chân tâm, bản thể của nó là chân tâm.

Vì vậy tâm làm Phật của tôi chính là chân tâm. Mặc dù bây giờ tôi đang dùng cái tâm này, cái tâm nghiệp thức. Nếu muốn thành Phật, cái tâm ấy tức thì sẽ biến thành chân tâm. Nên là tâm thành Phật lúc đấy, trở thành là tâm tức là Phật. Tâm này là Phật thì tâm này sẽ thành Phật, quý vị chính là Phật. Vậy khi niệm Phật quý vị đang làm Phật đấy. Không niệm Phật có nghĩa là không làm Phật, niệm Phật rồi sẽ làm Phật. Đây là người thượng căn. Quý vị đã biết tâm này là Phật, tâm này thành Phật rồi, quý vị còn tham niệm Phật là ai làm gì? Căn bản không cần tham. Chân thành niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, cứ như vậy mà niệm. Niệm niệm là đang làm Phật. Đây gọi là một bước lên trời. Vậy thì còn cái nào một bước lên trời trên cả việc làm Phật không? Làm Phật là tối cao rồi. Nếu quý vị không muốn làm Phật, quý vị sẽ tham niệm Phật là ai? Thật sự thành Phật rồi, đấy là hướng thượng nhất tác

thù thắng nhất, tham thiền đến cứu cánh. Không cần tham nữa, trực tiếp tìm tòi, thể hội. Đến cứu cánh rõ ràng. Tâm này của tôi chính là tâm Phật. Tịnh Độ trước tiên là nương nhờ vào Tha lực. Phải nhờ A Di Đà Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Có niệm, niệm A Di Đà Phật. Niệm một cách thành khẩn, niệm niệm rõ ràng, từng chữ từng câu. Ba thứ đều rõ ràng. Khẩu niệm tâm nghe, đếm rõ ràng. Có niệm, cứ liên tục niệm đến phút cuối niệm như không niệm. Câu A Di Đà Phật này quý vị niệm đến thuần thục rồi, niệm đến cứu cánh, sáu thức cũng sẽ không còn tác dụng nữa. Lúc nãy nói, quý vị không nhìn thấy Tịnh Độ, đó là vì quý vị còn có thức. Nếu như dùng căn, tánh của trung căn, đó chính là tự tánh. Khi đó quý vị sẽ nhìn thấy Tịnh Độ tức nơi này, nơi này tức Tịnh Độ.

Vậy chúng ta niệm đến khi nào? Đến khi sáu thức không còn tác dụng, thì đạt đến cảnh giới này. Hãy phân ra từng đoạn. Đem nhãn thức và ý thức của mình tập trung lại. Sáu thức mắt; tai; mũi; lưỡi; thân; ý. Chúng ta đem tai và ý hai thức này ra. Tai nghe Phật hiệu, ý; thì chú ý câu Phật hiệu. Phân minh rõ ràng. A Di Đà Phật, bốn chữ này, không hàm hồ, chỉ dùng hai thức này, các thức khác không dùng đến.

Mắt, nhãn thức không dùng không có nghĩa là nhắm mắt lại. Quý vị nhắm mắt lại vẫn thấy một màn đen tối, vẫn còn dùng nhãn thức. Nhìn thấy rồi vẫn xem như chưa thấy. Có cảm giác không? Có đấy. Khi quý vị tập trung nghe cái gì đó, mắt quý vị đang nhìn nhưng lại không nhìn thấy gì cả. Ví dụ như quý vị đang tập trung nghe Pháp, có một người đi ngang qua, quý vị có nhìn thấy không? Có nhìn thấy, nhưng nhìn thấy mà hình như không nhìn thấy. Người khác hỏi mình có nhìn thấy không, khi đó mình chú ý mới nhìn thấy. Ví dụ bây giờ quý vị chú ý nghe tôi giảng Pháp, kế bên có một ngọn đèn, quý vị có nhìn thấy không? À quý vị vừa nhìn thấy rồi. Đó là vì tôi nhắc thì quý vị mới nhìn thấy. Tôi không nhắc thật ra quý vị vẫn nhìn thấy rồi. Quý vị không thể nói là mắt của mình bị che lại, tôi nhìn không thấy, không phải như vậy. Mắt không bị che, quý vị thấy đấy nhưng mà không thấy, bởi vì quý vị không chú ý chỗ đó, cho nên nhãn thức không có tác dụng.

Tai, tai chỉ nghe Phật hiệu, âm thanh khác đều không nghe thấy. Ví dụ như bây giờ đang nghe Pháp, âm thanh sửa chữa kế bên không nghe được. Nhĩ thức có tác dụng là tác dụng trên câu Phật hiệu này.

Mũi, mũi ngửi hương nhưng vẫn ngửi không được. Quý vị nhất tâm niệm Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật cứ niệm như vậy. Những mùi thơm, mùi hôi thối không có cảm giác.

Thân, khổ cũng được, sướng cũng được, lạnh cũng được, nóng cũng được, đều không có cảm giác. Cứ một mực niệm. Cho nên tất cả mắt; tai; mũi; lưỡi; thân; ý, chỉ có tai và ý có tác dụng, còn lại bốn thức kia đều buông xả hết. Đây là bước đầu tiên, đó chính là quý vị chỉ tập trung vào câu Phật hiệu, đây gọi là công phu thành phiến. Vẫn chưa chuyển từ thức sang trí, vẫn còn dùng thức. Vậy thì sao? Cứ tiếp tục cố gắng dùng thức. Nhĩ thức và ý thức liên tục niệm, cứ niệm cứ niệm như vậy. Nhĩ thức và ý thức đều bị bỏ quên đi. A Di Đà Phật, A Di Đà Phật A Di Đà Phật. Quý vị không cần chú ý đến nghe, nó cũng không đoạn, câu Phật hiệu này sẽ không bị gián đoạn. Cho dù quý vị có ngủ thiếp đi, câu Phật hiệu này vẫn không bị gián đoạn. A Di Đà Phật, A Di Đà Phật. Quý vị nghe được đấy, nhưng không chú ý đến, nhưng lại vẫn nghe được. Quý vị không chú ý nghe, không cần dùng nhĩ thức, cũng không cần dùng ý thức. Nhưng nó vẫn phân minh rõ ràng, đây kỳ diệu làm sao? Sáu thức đều buông xả. Vẫn tiếp tục niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật. Câu này nối tiếp câu kia mà niệm. Ba Ba bốn, ba ba bốn, ba ba bốn cứ niệm như vậy. Niệm đến cuối cùng, thức thứ 7 và thức thứ 8 đều buông xả. Thức thứ 7 và thức thứ 8 khó buông xả nhất. Nhưng trước tiên phải buông xả 6 thức kia, sau đó đến buông xả thức thứ 7.

Thức thứ 7 là Ý căn. Tôi chấp trước là từ ý thức của tôi mà ra. Đây là ý thức thứ 7. Quý vị niệm Phật đến độ không chú ý đến nó nữa. Thân thể khổ cũng mặc kệ, có bệnh cũng mặc kệ, đói cũng mặc kệ, no cũng mặc kệ. Trong lúc bế quan tôi thể nghiệm được từ sáng đến tối 24 tiếng như thế mà niệm. Không ăn cơm cũng không ngủ mà niệm. Không ngủ còn được, không ăn cơm có được không? Buổi sáng hôm đó, tôi nhờ người hộ thất đem bữa sáng đến. Ăn sáng xong, ăn no một chút. Sau đó liên tục đến buổi trưa ngày thứ 2. Khoảng thời gian đấy không phải 24 tiếng sao. Trong 24 tiếng niệm được 22 vạn. 1 tiếng 05 phút niệm được 1 vạn. Ngoại trừ kinh hành, tĩnh tọa, còn lại là niệm Phật. Kinh hành cũng niệm Phật, tĩnh tọa cũng niệm Phật. Không lễ Phật, lẽ Phật sẽ niệm rất chậm. Khi đi vệ sinh thì câu Phật hiệu trong tâm vẫn không gián đoạn, vẫn đếm được. Thời gian đi vệ sinh nhanh một chút, 3 phút là xong. Đếm vẫn không bị loạn. Dùng ngón tay đếm, không thể cầm theo máy đếm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, một câu A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật. Như vậy đó. Đếm mười câu, thành ra là 100 câu. Cho nên buông xả sáu thức trước sau đó đến buông xả thức thứ 7.

Cuối cùng thức thứ 8 cũng buông xả nốt. Thức thứ 7 buông xả rồi không còn Ngã nữa, nỗ lực niệm, chỉ còn Phật hiệu không còn Ngã. Cứ tiếp tục niệm. Chỉ còn Phật hiệu, thân tâm và thế giới sẽ tiêu biến đi.

Trong phút chốc đều biến mất, không còn gì. Thập phương quốc độ trong phút chốc đều không còn gì. Trong cái không ấy chỉ còn Phật hiệu, phân minh rõ ràng, lúc đấy thức thứ 8 cũng buông xả. Nhưng buông xả này vẫn chưa đạt cứu cánh. Chưa đạt cứu cánh thì sao? Quý vị vẫn phải quay về.

Không niệm Phật nữa, Thế giới lại hiện ra, có thân người, lại có no có đói. Những cảm giác này đều có trở lại. Sáu thức lại hồi phục trở lại. Công phu như vậy vẫn chưa đạt đỉnh, vẫn chưa đạt. Vậy thì sao? Tiếp tục niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật. Vẫn tiếp tục niệm, không nên quay về thì được rồi. Chuyển thức thành trí. Khi chuyển thức thành trí rồi, quý vị phút chốc khai ngộ, đại quang minh tạng hiện tiền. Vậy thì vi diệu không thể nói rồi. Tôi vẫn chưa đạt đến cảnh giới đó, không nói ra được. Đó cũng như Quốc sư Trung Phong từng nói, Tịnh Độ tức cõi này, cõi này tức Tịnh Độ. Tâm tôi là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là tâm tôi. Là tâm thành Phật, tâm này là Phật. Đến bước này, lý tức là Phật rồi, đây mới thực sự không loạn. Bởi vì sao? Chân tâm hiện tiền làm sao loạn nổi. Chân tâm vốn dĩ thanh tịnh, vốn không dao động.

Tin Người là phải tin đến cùng, niệm Phật phải niệm đến cùng, đạt đến cảnh giới của cứu cánh. Cho nên Tịnh Độ là từ có niệm đến vô niệm, từ vãng sanh đến vô sanh, và chứng vô sanh pháp nhẫn. Vô sanh pháp nhẫn là gì? Nhẫn chịu, nhẫn nại. Thân tâm thế giới, thập phương quốc độ, tất cả đều là hư vô ảo ảnh, vốn không sinh diệt. Quý vị có thể nhẫn nại, tâm an trú trong niệm không động, chính là vô sanh pháp nhẫn. Thời gian hết rồi, nói lòng vòng cả nữa buổi rồi. Chỉ mới nói đến Lục tín là Tín Tự, Tín Tha. Vẫn còn 4 cái tín nữa, vẫn còn nói về lời nguyện, nói về trì danh, Tín nguyện trì danh. Mới có thể nói hết lời nguyện Thập niệm tất sanh. Vậy thì để lại đến buổi chiều chia sẻ cùng quý vị. Xin cám ơn!

Từ Ngữ Phật Học Trong: Phần Thượng

Kinh Sách Liên Quan

Tìm không thấy