Ðức Phật trước giờ vào Niết Bàn, ngài nói với chúng đệ tử rằng: “Suốt 49 năm giáo hóa, thật ra ta chưa từng nói một lời nào”. Ðủ thấy cái chân lý cao siêu tuyệt đối không thể dùng lời diễn tả được.
Suốt bốn mươi chín năm ròng rã thuyết pháp của Ðức Phật đấy như là ngón tay chỉ mặt trăng, còn cái chân lý thuyết vời mà Ngài muốn trao gửi cho người đời thì như mặt trăng. Muốn thấy chân tướng mặt trăng, cần phải nương ngón tay. Nhưng nếu lại chấp chặc vào ngón tay thì muôn đời không thể nào thấy được mặt trăng. Vì thế kinh nói: “Nhứt thiết tu ta la giáo như tiêu nguyệt chỉ”. Nghĩa là tất cả kinh điển Phật dạy như ngón tay chỉ mặt trăng là vậy.
Cái chân lý tuyệt diệu thì không thể dùng ngôn ngữ văn tự để diễn bày, cũng như người muốn đạt đạo thì không thể đơn phương dùng ngôn ngữ văn tự mà thể đạt được. Lão Tử cũng đồng quan điểm này, khi ông nói” “Ðạo khả đạo phi thường đạo”. Cái đạo mà dùng lời nói ra được thì đó chưa phải là cái đạo chơn thường. Thế nên kinh Phật nói “ngôn ngữ đạo đoạn” là ý nghĩa này đây.
Lời nói không thể diễn tả trọn vẹn chân lý đạo. Thảo nào Ðạt Ma Thiền Tổ chín năm im lặng xoay mặt vào vách để quán tâm. Tâm quán triệt thì tuệ giác mới có cơ ngời sáng, thấu đạt lý đạo vi diệu. Muốn diệu tâm chơn tánh hiển bày, không gì hơn là ngày ngày phải chuyên tâm niệm Phật tham thiền để tâm được yên, từ đó tâm tự quán chiếu.
Vậy muốn đạt đạo, không cách nào ngoài vận dụng tâm. Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch. Người muốn được tiến bộ trên đường giác ngộ giải thoát trước hết phải nương vào kinh điển của Phật, theo đó hành trì tu tâm sửa tánh mới mong thân tâm thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh thì huệ nhựt phát sanh, Phật tánh hiển lộ. Có thiết tha hành trì, thường hằng dốc chí cầu tiến thánh thiện thân tâm, thì lo gì không thể nhập chân lý, trực chỉ đạt thành đạo quả giác ngộ.
Bởi ý nghĩa này, nên nhà Phật thường gọi người gọi phát tâm hành đạo hướng thượng trên đường giác ngộ giải thoát là hành giả. Hành giả chứ không phải thuyết giả. Thuyết giả là kẻ chỉ biết nói suông. Kẻ miệng thích nói ba hoa, khua chuông, gióng trống, vọng ngôn, trồng cội tội ác. Nói hay mà không thực hành hay thì chỉ là cái máy phát thanh, giống như anh chàng suốt ngày đếm tiền cho chủ, kẻ chăn cừu cho ông trưởng giả, đó cũng là hình ảnh con vẹt nói tiếng người. Trên đời này không thiếu chi kẻ thích nói suông mà không thích thực hành. Hạng người như thế có khác nào người đói ngồi nói thức ăn này này ngon, thức ăn kia dở. Kẻ khát ngồi phân tích rành rẽ nước nọ bổ, nước kia ngọt mà không chịu uống ăn!
Cũng vậy, kẻ hiểu chút ít giáo lý nhà Phật, mang ảo tưởng mình tu cao, thấu hiểu Phật pháp, đến đâu cũng nói khoác ra ta đây thông bác, làm thầy đời, trong lúc đó chính mình lại quên thực hành lời Phật dạy, đời sống hằng ngày không có chút ít gì Phật pháp. Núi tham sân si mạn nghi còn đầy ấp cả người. Những kẻ như thế chỉ là trò cười thiên hạ, tự làm hạ phẩm giá của mình, nên có lời kệ khuyên:
Hãy nhớ sâu những lời Phật dạy,
Ðể soi mình phản chiếu tự tâm,
Hầu tránh xa muôn kiếp lỗi lầm,
Miền Cực Lạc thay trầm luân khổ hải.
Hơn mười năm hành đạo ở Hoa Kỳ, tôi thường đi hoằng pháp đó dây, những lời giảng pháp của tôi tưởng chừng đã hòa tan trong không gian như mây khói. Nào ngờ hôm nay cơ duyên hội tụ, lời giảng pháp năm xưa kết thành trang sách “Pháp Ngữ Lục” này. Những lời đó có đáng giá gì đâu! Vì đấy chỉ là lập lại những lời di giáo của Ðức Phật ngàn xưa. Nhưng những gì thuộc về dĩ vãng không còn nghĩ nhớ đến, dĩ vãng đã quên mà nay còn tồn tại, ấy là bóng hình của văn hóa. Như nhà ngoại giao Pháp Edouard Herriot nói: “Văn hóa là cái gì còn lại khi người ta đã quên hết tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta vẫn học hết tất cả”. (La culturre, c’est ce qui reste quand on a toute oublée, c’est ce qui manque quand on a tout appris). Bản chất của văn hóa không rời đạo đức.
Tôi mang tâm nguyên đem lời dạy của Ðức Phật trong kinh điển trình thưa với mọi người, những mong cho ai nấy kết thiện duyên Bồ đề cố gắng thực hành để có được đời sống an lạc, thăng tiến trên quang lộ thánh thiện giác ngộ. Luận Dị Ðộ Tôn Luân nói: “Tất cả những kết quả tốt đẹp đều thực hiện bởi con người”. Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: “Con người là hơn cả, có khả năng làm nên các pháp lành”. Thánh thiện hay phàm phu, trầm luân hay giải thoát, vô minh hay giac ngộ đều chính con người chủ động. Ðiều đáng lưu ý cho hành giả là văn hay chữ tốt không làm cho chơn tâm hiển lộ. Danh vọng chức tước dù đạo hay đời cũng không thực tế giúp ích gì trên đường giác ngộ giải thoát.
Chân lý duyên sanh tuyệt vời qua lời Phật dạy trong kinh Thủ Lăng Nghiêm: “Nhơn duyên hòa hợp hư vọng hữu sanh. Nhơn duyên biệt ly hư vọng hữu diệt”. Các pháp thế gian hiện thành là do lớp lớp duyên sanh duyên diệt nối tiếp nhau. Mọi hiện tượng đều do tương duyên tương sanh mà hình thành vạn pháp. Nên bản chất của thế gian là tương duyên sanh diệt. Nếu không có sanh diệt thì không gọi là thế gian. Nên kinh Lăng Già nói: “Thế gian ly sanh diệt, du như hư không hoa”. Nghĩa là thế gian này lìa hiện tượng sanh diệt ra thì chẳng khác hoa đốm giữa hư không. Hoa đốm có là đối với người nhặm mắt. Vạn vật thế gian có hiện tượng tồn tại là đối với chúng sanh vô minh, tham vọng, tuệ giác còn trong vòng chướng ngại. Bản chất vạn hữu thế gian là huyễn ảo thế dó. Nên kinh Kim Cang nói: “Tất cả các pháp thế gian đều như mộng huyễn, như bóng bọt”. (Nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh).
Thân ta cũng là một pháp trong vô lượng pháp thế gian, tán tụ vô thường, tan hoại còn mất, tùy thuộc nhân duyên của tứ đại thuận nghịch mà hình thành tướng trạng hợp tan. Có lẽ tôn giả Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất khi nghe tỳ kheo Át Bệ, một trong năm người đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật trả lời “Thầy tôi là bậc đại sa môn thường dạy rằng: Các pháp do nhân duyên sanh và diệt cũng do nhân duyên diệt” mà liễu ngộ chân tướng vạn pháp, nên hai Ngài bỏ tà đạo, hồi đầu cầu Phật xin được xuất gia làm đệ tử, dốc chí tu hành chẳng bao lâu chứng Thánh, trở thành đệ tử hàng đầu trong tăng đoàn của Phật.
Quyển Pháp Ngữ Lục này sẽ làm thất vọng cho những ai có ý mong tìm những áng văn hay, những tư tưỏng kỳ lạ, mớ triết lý cao siêu. Vì sách đây vốn là văn nói từ những bài giảng pháp kết thành, và nó cũng không có kỳ vọng cống hiến cho đời cái triết lý viễn vông để thỏa mãn trí óc tò mò, xa lìa lý tưởng xây dựng đời sống an lạc thực tế. Nhưng nó có thể đáp ứng cho những hành giả có tâm chí cầu thoát ly quỷ đạo luân hồi. Nó sẽ là phương tiện, là môi trường thuận lợi trên bước đường hành đạo xây dựng đời sống thánh thiện, an lạc trong ánh sáng giác ngộ giải thoát của Ðức Phật. Ấy chính là tâm nguyện của tỳ kheo quê mùa tôi đây vậy.
Hoa Kỳ, Phật Ðản Tân Mùi 1991
THÍCH ÐỨC NIỆM