Sư họ Tân, người ở Đông Lai.
Khoảng đời vua Thái Tôn nhà Đường, Sư xuất gia. Khi gặp được ngài Nghĩa Tịnh từ Ấn Độ về, Sư sớm tối học hỏi, nên thông đạt được Phật thừa. Mỗi lần nghe ngài Nghĩa Tịnh giảng về những di tích của Như Lai ở Ấn Độ, Sư xúc động mạnh nhưng vì đường sá xa xôi nên đành ôm ấp chí nguyện.
Vào khoảng niên hiệu Đại Túc đời Vũ Tắc Thiên (701), Sư đáp thuyền vượt biển đông nam, qua các nơi như: Côn Lôn, Phật Thệ, châu Sư Tử, v.v… ba năm mới đến Ần Độ. Ở đó, Sư đi học hỏi các bậc thiện tri thức trong vòng mười ba năm, tiếp nhận giáo pháp, không để một ngày luống qua vô ích. Sư đi chiêm bái các di tích ở núi Tuyết, Song Lâm. Suốt bốn năm, trải vô vàn gian nan, cảm nhận sâu xa nỗi thống khổ của thế giới Ta bà, nhân đó Sư nói:
- Cõi nào, phương nào có vui không khổ? Pháp gì, hạnh gì mau thấy được Phật?
Sư đi khắp nơi hỏi các vị Tam tạng ở Thiên Trúc, họ đều tán thán pháp môn Tịnh độ. Các ngài nói:
- Vị giáo chủ cõi Tịnh độ có lòng đại bi và nguyện lực sâu rộng, nếu có ai muốn vãng sinh thì đều được như ý nguyện.
Sư nghe xong vui mừng ghi nhớ. Sau đó, nhân dịp đến nước Kiện đà la ở miền Bắc Ấn, Sư biết tượng đức Quan Âm trên một ngọn núi ở phía đông bắc kinh thành ấy rất thiêng, hễ có ai chuyên tâm cầu nguyện, Bồ tát đều hiện thân. Sư phát nguyện quên ăn bỏ ngủ, không tiếc thân mệnh trong bảy ngày lễ thỉnh Bồ tát. Đến ngày thứ bảy, lúc chưa đến nửa đêm, đức Quan Âm hiện thân màu vàng tía ở trên hư không, thân cao một trượng, ngồi trên tòa sen báu, đưa tay phải xoa đầu Sư, nói:
- Ông muốn truyền bá chính pháp làm lợi ích chúng sinh, muốn sinh về nước của Phật A di đà thì hãy chuyên niệm thì sẽ được sinh như nguyện. Ông nên biết, pháp môn Tịnh độ vượt hơn mọi công hạnh.
Nói xong, Bồ tát biến mất.
Sư vì tuyệt thực đã lâu, nên thân thể suy yếu, mỏi mệt, do đó Sư càng thấy thân tâm nhẹ nhàng. Từ lúc Sư đi Tây Trúc đến khi trở về mất hết 21 năm, trải qua hơn 70 nước. Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ bảy (719), Sư mới về đến Trường An, dâng trình tượng Phật và kinh điển, khiến vua cảm động, vua tuyên dương công đức của Sư và sắc ban hiệu “Từ Mẫn Tam Tạng”. Sư tinh cần tu trì pháp môn Tịnh độ, từng biên soạn Tịnh độ văn kí, năm quyển, được người đương thời kính tín.
Nếu nói về nhiệt tâm dẫn dắt người tục, thì Sư gần bằng các ngài Đạo Xước, Thiện Đạo ...
Niên hiệu Thiên Bảo thứ 7 (748) đời Đường, Sư viên tịch tại chùa, thọ 69 tuổi. Di thể Sư được an táng ở Tây Lĩnh, Bạch Lộc Nguyên. Trước khi viên tịch ba ngày, Sư tự nói:
- Ta thấy hoa sen sáng như mặt trời!