Đàm vô kiệt, Trung Quốc dịch là Pháp Dũng. Sư họ Lí, người Hoàng Long, U châu. Sư đã thụ sa di khi còn bé, chuyên tu trì giới, tụng kinh, được chư tăng kính trọng. Có lần nghe các ngài như Pháp Hiển v.v.. một mình đi đến đất Phật, sư vô cùng xúc động, lập nguyện quên thân vì đạo pháp.
Vào niên hiệu Vĩnh Sơ thứ nhất (420) đời Lưu Tống. Sư nhóm họp các sa môn đồng chí hướng như Tăng Mãnh v.v… cùng mang những phẩm vật gồm tràng phan, bảo cái đi sang Tây Trúc cúng dường. Đầu tiên, sư đến nước Hà Nam, vượt quận Hải Tây, qua sa mạc đến nước Cao Xương, rồi trải qua các nước như Qui tư, Sa lặc, lên Thông Lãnh vượt Tuyết Sơn, đến nước Kế tân, chiêm bái bình bát Phật.
Sư dừng lại đây hơn một năm để học tiếng Phạn, và thỉnh được một bộ kinh Quán Thế Âm thụ kí[33] bằng tiếng Phạn. Sư lại đến sông Tân đầu na đề, men theo sông về phía tây vào nước Nguyệt Thị, lễ bái xương đỉnh đầu của Phật và nhìn thấy được thuyền chạy bằng hơi nước. Sau đó, sư đến chùa Thạch Lưu, phía nam núi Đàn đặc. Chư tăng ở chùa nầy hơn ba trăm vị, học giáo nghĩa Tam thừa. Sư dừng lại ở đây cầu thọ đại giới.
Sau đó, sư lại đi đến Trung Thiên Trúc[34], đường đi hoang vắng, nhưng sư chỉ mang theo đường phèn làm lương thực. Tuy thường trải qua những hiểm nguy gian khó, nhưng sư luôn luôn nghĩ nhớ bộ kinh Quán Thế Âm mang theo. Khi sắp đến nước Xá vệ, ngang qua khu rừng vắng, gặp một đàn voi núi, sư liền xưng danh hiệu bồ tát Quán Thế Âm, ngay lúc ấy, có một con sư tử phóng ra, bầy voi kinh sợ bỏ chạy tán loạn.
Sau đó, sư vượt sông Hằng, lại gặp một bầy trâu hoang kêu rống, đi đến muốn hại sư. Sư lại xưng danh hiệu Bồ tát như trước, thì lại có một con chim thứu to lớn bay đến. Trâu hoang kinh sợ bỏ chạy tứ tán, nhờ đó sư thoát nạn.
Sau, từ Nam Thiên Trúc, sư theo thuyền vượt biển đến Quảng Châu, và dịch kinh Quán Thế Âm thụ kí tại đây. Nay bộ kinh này được truyền bá khắp kinh đô.
Về sau không biết sư viên tịch ở đâu.