Home > Khai Thị Phật Học > Tat-ca-cac-huong-thom-khong-bang-huong-cua-nguoi-giu-gioi
Tất cả các hương thơm không bằng hương của người giữ giới
Thích Hậu Quán | Thích Vạn Lợi, Việt Dịch


Kính chào quý thầy, quý cô, cùng tất cả quý Phật tử!

Hôm nay tôi muốn cùng quý vị chia sẻ một câu chuyện trong kinh Phật. Câu chuyện này được trích từ Kinh Pháp Cú Thí Dụ, quyển 2, phẩm Hoa Hương thứ 12, trong Đại Chánh Tạng quyển 4, trang 585a26-c12.

Sau khi Đức Phật thành đạo không lâu, ngài ở tại nước La Duyệt Kỳ giáo hóa chúng sanh. Sau đó ngài đến nước Xá Vệ để tiếp tục hoằng pháp, quốc vương và các đại thần đều rất vui mừng và mến phục Đức Thế Tôn. Bấy giờ có một vị thương chủ, tên của là ông Ba Lợi, cùng với 500 thương buôn đi ra biển tìm bảo vật. Lúc đó có một vị thần biển xuất hiện, hai tay vụm một vốc nước và hỏi Ba Lợi rằng: “Nước biển nhiều hơn, hay nước trong tay ta nhiều hơn?”.

Ba Lợi trả lời: “Nước trong tay của ngài nhiều hơn”, Vì sao vậy? Bởi vì nước biển tuy rất nhiều, nhưng không giúp gì cho chúng sanh được, không thể cứu cơn đói khát của con người. Còn nước trong tay ngài là nước ngọt, tuy không nhiều nhưng có thể giúp con người xoa dịu cơn đói khát, có thể cứu lấy mạng sống của muôn dân, như thế mới có thể đời đời kiếp kiếp được vô lượng phước đức, không thể tính kể được. Câu trả lời của quốc vương khiến cho thần biển vô cùng bất ngờ và hoan hỷ. Vị thần này khen quốc vương: “Lành Thay! Lành Thay! Thiện tri thức!”, và liền cởi trên thân tám loại anh lạc làm từ thất bảo trao cho Ba Lợi, đồng thời tiễn Ba Lợi đi một đoạn đường, giúp cho ông an toàn trở lại nước Xá Vệ. Ba Lợi nghĩ rằng: “Những bảo vật này không thích hợp cho những người bình dân làm vật trang sức, mình đem về dâng lên vua Ba Tư Nặc, hy vọng nhà vua sẽ hoan hỷ nhận lấy”. Vua Ba Tư Nặc sau khi nhận lấy anh lạc, cảm thấy món quà vô cùng hiếm lạ, liền gọi tất cả phu nhân đến xếp thành hàng, xem thử ai là người kiều diễm nhất thì sẽ tặng cho người ấy các loại anh lạc này. Lúc đó, có tất cả sáu vạn phu nhân, ai cũng đến và trang điểm thật tỉ mỉ, chỉ có Mạt Lợi phu nhân là không xuất hiện. Nhà Vua liền hỏi: “Mạt Lợi Phu Nhân đâu, tại sao không đến?”. Người tỳ nữ tâu rằng: “Hôm nay là ngày rằm, chính là ngày phu nhân trì giới bát quan trai, cho nên phu nhân chỉ ăn mặc đơn giản, lại không trang điểm, nên không đến tham dự.” Nhà Vua nghe xong vô cùng tức giận, liền ra lệnh cho người mời Mạt Lợi phu nhân đến, quở trách rằng: “Nhà ngươi hôm nay vì việc trì giới, mà dám chống đối lại lệnh của quốc vương sao?” Nhà vua cho người đến gọi ba lần như vậy. Cuối cùng Mạt Lợi cũng chịu xuất hiện. Bà ăn mặc rất giản dị nhưng khi đứng giữa sáu vạn cung nữ, trở nên rạng rỡ đến lạ thường, ngời sáng như mặt trời ban ngày và ánh trăng trong đêm, vô cùng trang nghiêm, diễm lệ hơn thường ngày trang điểm. Nhà Vua tận mắt chiêm ngưỡng, vô cùng ngạc nhiên kính nể, liền hỏi Mạt Lợi: “Phu Nhân! Nàng đã làm những việc thiện gì mà nhan sắc trở nên rạng ngời như vậy, khác xa với tất cả các phu nhân khác?

Mạt Lợi phu nhân đáp: “Thưa bệ hạ! Thiếp vì vun bồi phước đức còn rất ít, nên phải chịu làm thân người nữ; phiền não, nghiệp chướng nặng nề, tích lũy từ nhiều ngày tháng, dồn lại cao như núi. Mạng sống của con người vô cùng ngắn ngủi, nếu không biết tận dụng thời gian để tu tập, thì dễ rơi vào ba đường ác, vì thế mà mỗi tháng thiếp đều trì giới bát quan trai để bớt đi những sự ham muốn của thế tục, làm theo lời dạy của Đức Thế Tôn, hy vọng túc nghiệp tiêu trừ, phước đức tăng trưởng.”

Nhà Vua nghe xong vô cùng niềm nở, Ngài liền quyết định trao những món anh lạc cho Mạt Lợi phu nhân.

Mạt Lợi phu nhân trả lời: “Thiếp hôm nay trì giới, không cất giữ trang sức, Bệ Hạ có thể tặng cho người khác.

Quốc Vương bảo: “Trẫm vốn phát tâm tặng các món anh lạc này cho người nào trang nghiêm nhất. Nàng là người tuyệt vời nhất, mà còn trì trai giữ giới, đạo hạnh thanh cao, chính vì thế mà ta quyết định trao tặng cho nàng. Nếu nàng không nhận, những thứ anh lạc này ta phải giải quyết như thế nào cho hợp lý đây?

Mạt Lợi phu nhân thưa: “Đại Vương! Đại Vương! Ngài không cần phải quá lo lắng như thế. Ngài có thể đến nơi Đức Phật đang cư trú, mang tất cả bảo vật này dâng lên cúng dường, và tiếp nhận lời dạy của Thế Tôn, được như thế, sẽ hưởng được phước đức trong nhiều đời.

Nhà Vua nghe xong liền đồng ý, và cho người chuẩn bị xe ngựa, đến nơi đức Phật cư trú , đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống bên cạnh.

Quốc Vương thưa với Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Vị thần biển trao tặng anh lạc cho Ba Lợi. Ba Lợi lại dâng lên cho Trẫm. Trẫm muốn trao tặng cho phu nhân nào đẹp nhất. Sáu vạn phu nhân ai cũng mong muốn được nhận những anh lạc quý giá này, chỉ có Mạt Lợi, Trẫm tặng cho nàng, nhưng nàng không chịu tiếp nhận, bởi vì nàng giữ gìn trai giới, tâm không còn ham muốn. Nàng hy vọng ta mang những thứ anh lạc này cúng dường lên Đức Phật, ngưỡng mong Thế Tôn từ bi nhận lấy. Thưa Thế Tôn! Trẫm một lòng trì trai giữ giới, có niềm tin chân chánh như vậy, sẽ sanh phước đức chăng?”

Lúc ấy, Đức Phật liền nói một bài kệ có đại ý như sau:

“Dùng các thứ anh lạc, kết thành một vòng hoa thật đẹp, cài trên đầu, bước đi thướt tha, dáng vẻ quyến rũ thật là diễm lệ. Nhưng nếu đời này tích lũy phước đức sâu dày, nhờ hương thơm giới hạnh ấy, trong tương lai sẽ được sanh nơi thù thắng, thì càng tuyệt vời hơn!”

Có nhiều loại hoa thơm, cỏ lạ, chỉ cần đi ngược gió thì không còn ngửi được hương thơm. Nhưng nếu gặp được Phật Pháp, tinh tấn tu học thì đóa hoa chân lý một khi hé mở, hương thơm sẽ lan tỏa khắp nơi, cùng chiều hay ngược gió đều có thể thưởng thức được, loại hương này mới là đặc biệt nhất.

Chiên đàn, trầm hương, hay bột thơm hợp lòng người, hương sen trong lành ngào ngạt, đối thế gian mà nói là sắc hương tuyệt vời, nhưng đâu bằng hương thơm giới hạnh thù thắng. Muôn hoa mong manh phai nhạt, mùi hương chẳng thể nào vương vấn dài lâu, nhưng sắc hương người giữ giới tỏa ngát tận cõi trời. Đây mới là thứ hương thù thắng hi hữu.

Nếu người trì giới, thì thành tựu các giới hạnh trang nghiêm; trong lúc hành trì không phóng dật sẽ đạt được thiền định, nhờ sự hiểu biết chân chánh mà được giải thoát, tức không còn đi vào con đường của ma nữa.

Đức Phật đọc xong bài kệ, lại nói với vua Ba Tư Nặc rằng: “Phước đức của việc trì trai giữ giới vô cùng vô tận, có thể giúp tiếng tốt được vang xa, người nghe sanh lòng cung kính. Nếu mang công đức bố thí của mười sáu quốc gia ra để so sánh, cũng không thể bằng công đức trì trai giữ giới của Mạt Lợi phu nhân trong một ngày đêm. Công đức bố thí châu báu của mười sáu quốc gia mang ra so sánh với công đức trì giới của phu nhân bệ hạ, chẳng khác gì mang hạt mè ra sánh với núi Tu Di, thì chắc chắn không thể bằng được. Nếu lấy việc trì trai giữ giới làm cội rễ của sự tích lũy công đức, trao dồi trí tuệ, thì có thể đoạn trừ phiền não, chứng đắc Niết Bàn.”

Quốc vương và phu nhân cùng các quan nghe xong đều rất vui mừng, nguyện y giáo phụng hành.

Câu chuyện này có nhiều điểm nhắn nhủ đến chúng ta.

Thứ nhất: Trang nghiêm đạo tâm quan trọng hơn trang sức bên ngoài.

Thứ hai: Hương thơm của đức hạnh thì vượt trội hơn các hương thơm khác. Nếu chúng ta phạm giới mà không chịu sám hối thì sẽ rất hôi, có thể nói hôi hơn cả hầm phân hố xí.

Thứ ba: Nước biển tuy lai láng, nhưng không mang lại lợi ích cho chúng sanh; nước ngọt trong tay tuy ít ỏi, nhưng có thể giúp chúng sanh giải được cơn đói khát. Cũng thế, chúng ta đã học qua rất nhiều kiến thức, nhưng đã có thể dùng một phần nhỏ để tịnh hóa thân tâm, giúp chúng ta an lạc chưa? Chúng ta học được rất nhiều, nhưng đã ứng dụng phần nào làm lợi ích cho chúng sanh chưa? Đây là dịp để chúng ta nghiêm túc nhìn lại bản thân.

Chúng ta hãy cùng nhau cố gắng!

Lớp giáo dục Phật Pháp Phước Nghiêm, ngày 02 tháng 06 năm 2012

Tay chân mắt tai miệng tranh giành công lao

Kính chào quý thầy, quý sư cô, cùng quý vị Phật tử!

Hôm nay tôi muốn chia sẻ cùng quý vị một câu chuyện. Câu chuyện này được trích từ Kinh “Duy Lâu Vương Sư Tử Nhũ Thí Dụ” trong “Kinh Luật Dị Tướng” thuộc “Đại Chánh Tạng”, quyển 53, trang 92a20-c1.

Câu chuyện được kể như sau:

Lúc Đức Phật còn tại thế, có bốn anh em nhà nọ, cha mẹ không may qua đời. Sau đám tang, bốn anh em tranh giành gia tài, cãi nhau không ngớt. Một hôm, gặp được thầy Xá Lợi Phất, họ rất vui mừng, thỉnh Thầy thuyết pháp cho họ được nghe, để họ hóa giải được mâu thuẫn.

Thầy Xá Lợi Phất nói với họ rằng: Tôi sẽ giới thiệu cho quý vị Thầy của tôi. Thầy của tôi chính là Đức Thế Tôn, bậc tôn quý nhất trong ba cõi, là thầy của trời và người. Ngài sẽ giúp quý vị tìm thấy được câu trả lời hài hòa nhất. Sau đó, họ cùng thầy Xá Lợi Phất về tịnh xá gặp Đức Phật và thưa cùng đức Thế Tôn rằng: Anh em của chúng con đều rất khờ dại, cúi mong Đức Thế Tôn vì thương xót chúng con mà nói pháp, để chúng con được liễu tri.

Đức Phật bèn kể cho họ nghe một câu chuyện:

“Vào thời quá khứ, có một vị vua tên là Duy Lâu. Bấy giờ nhà vua đang lâm trọng bệnh, có vị lương y cho biết bệnh của nhà vua cần phải có sữa của sư tử để điều chế thuốc, bệnh mới qua được cơn nguy kịch.

Để có thuốc thì rất dễ dàng, nhưng muốn lấy được sữa của sư tử thì không hề đơn giản, có phải vậy không? Chưa vắt được sữa, nếu không may bị nó cắn, thì thật là phiền phức. Nghe vậy quốc vương càng thêm lo lắng. Nhà vua liền cho quân thông báo khắp nơi, tìm người có khả năng, nếu ai lấy được sữa của sư tử, ngài sẽ ban cho đất đai, và gả công chúa làm vợ.

Lúc đó, có một chàng thanh niên nghèo đến nhận lời, anh ta nói có thể lấy được sữa của sư tử, quốc vương bảo: Vậy thì anh cứ thử xem!

Sau đó, chàng thanh niên lặn lội vào rừng sâu thăm dò, may mắn tìm được chỗ ở của sư tử mẹ và đứng nơi bóng tối để quan sát. Nhân lúc sư tử mẹ ra ngoài, anh mang thịt dê và rượu đã chuẩn bị từ trước đặt vào trước miệng hang.

Sau khi sư tử trở lại hang, thấy có rất nhiều rượu và thịt đã sắp sẵn, nó rất sung sướng, liền làm một bụng no nê và say mèm, mê man nằm ngay tại chỗ. Chàng thanh niên thừa cơ hội hiếm hoi này nhanh tay vắt sữa sư tử, để mang về dâng lên nhà vua. Lúc ra khỏi rừng, trời cũng đã tối, nên anh dừng chân bên một nhà trọ ven đường ngủ qua đêm. Lúa đó có một vị A La Hán cũng dừng chân nghỉ cùng phòng với anh.

Chàng trai vì cả ngày đi rình tìm sư tử, trải qua nhiều phen nguy hiểm nên rất mệt, ngủ mê man không còn biết động tĩnh gì. Vị A La Hán vì có thần thông nên đã nhìn thấy mắt, tai, mũi, lưỡi và tay chân của anh bạn cùng phòng đang đua nhau kể công.

Chân thì nói: Nhờ công lao của tôi, phải lặn lội

lắm mới đến được nơi đây, mới có thể tìm thấy sư tử, tính ra tôi là người có công nhất.

Tay cũng lên tiếng: Anh bạn chỉ đi đến đây, không có tôi vắt, thì có thể lấy được sữa của sư tử sao? Đâu có dễ dàng như vậy!

Mắt lại tiếp lời: Nghe đây! Nếu không có tôi tìm thấy sư tử, tay, chân các anh làm nên việc gì chứ?

Tai nghe như vậy cũng không nhịn được: Tất cả đều nhờ vào tôi nghe được tin của nhà vua chiêu mộ người khắp nơi, ai có thể lập công thì nhận thưởng. Nếu không thì làm sao các anh có thể nghĩ đến chuyện đi vắt sữa sư tử được, có phải thế không? Do đó công lao này phải là của tôi.

Còn lại lưỡi (đại diện cho miệng), thì bị họ hàng chế giễu: “Anh không có chút công lao nào trong việc này cả”.

Bấy giờ lưỡi mới lên tiếng: “Các anh cũng đừng có vội xem thường tôi chứ, đợi đến lúc gặp nhà vua sẽ biết ngay là sống hay chết, phước hay họa”. Cứ như thế tay, chân, mắt, tai, miệng, tranh nhau không ngớt.

Sáng hôm sau chàng thanh niên mang sữa trở về dâng lên nhà vua. Nhà vua hỏi: Đây là sữa của sư tử thật sao? Hãy mang đến cho Trẫm xem.

Anh ta vừa mới dâng lên nhà vua, thì lưỡi liền lên tiếng: Đại vương! Đại vương! Đây không phải sữa của sư tử đâu, là sữa của lừa đó.

Nhà vua nghe xong vô cùng giận dữ: “Nhà ngươi nói rõ ràng là đi vắt sữa của sư tử, tại sao bây giờ lại mang sữa lừa về đây. Người đâu, mau đem tên này ra chém ngay”.

Lúc đó, vị A La Hán đã nghỉ cùng với chàng thanh niên, vì có thần thông nên đoán biết tay, chân, mắt, tai, miệng tranh giành công lao như vậy thể nào cũng mang đến họa mất mạng cho anh. Do đó ngài kịp thời đến tâu với nhà vua rằng: Thưa quốc vương! Đây đúng là sữa của sư tử. Đêm hôm qua, tôi với vị này nghỉ cùng phòng trọ, tôi nhìn thấy, mắt, tai, lưỡi, tay và chân của anh ta, chúng giành nhau kể công. Tôi nghĩ lưỡi vì bị chế giễu, ấm ức nên chỉ hăm dọa vậy thôi, đâu ngờ nó lại làm thật. Đây là sữa sư tử thật. Quốc vương, ngài yên tâm, dùng sữa này điều chế thuốc, bệnh sẽ hết ngay.

Nhà vua tin lời của vị A La Hán. Quả đúng như vậy, sau khi uống thuốc điều chế từ sữa sư tử, bệnh của vua hết hẳn, và ngài liền thực hiện lời hứa của mình.

Vị A La Hán tâu với nhà vua rằng: mắt, tai, lưỡi, tay, chân trên cùng một cơ thể, có những lúc chúng nó không hòa thuận. Chúng ta cũng vậy, có duyên gặp gỡ và có thiện cảm với một người, nhưng khi nghe có ai đó nói không tốt, thì lại tin vào cái tai của mình, không chịu tin những điều tận mắt nhìn thấy, nên dẫn đến hiểu lầm gây ra tranh chấp, xung đột. Bản thân còn mâu thuẫn như vậy huống gì là người khác.

Bấy giờ chàng thanh niên được ơn cứu mạng của vị A La Hán bèn xin xuất gia làm sa môn, sau chứng quả. Quốc vương cũng hoan hỷ xin thọ trì năm giới, đắc quả Tu Đà Hoàn. Bốn anh em nhà nọ cũng liễu tri lời Đức Phật dạy, hóa giải mâu thuẫn, xin được xuất gia, trì bình khất thực cùng tăng đoàn. Đức Phật im lặng, mỉm cười đưa tay xoa đầu thọ ký, tóc của bốn vị tự nhiên rụng, tăng phục khoát lên thân, hiện tướng sa môn, dứt trừ phiền não, khai ngộ đắc quả A La Hán”.

Bấy giờ ngài A Nan thưa cùng Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Bốn anh em các vị ấy, xưa kia tạo công đức gì mà nay có phước báu gặp Phật, được khai ngộ, chứng quả A La Hán?

Đức Phật đáp: “Này A Nan! Vào thời quá khứ, lúc Đức Phật Ma-Phụ còn tại thế, Xá Lợi Phất làm đệ tử Ngài. Khi ấy bốn vị này là thương khách, phát tâm cúng dường thầy Xá Lợi Phất một bộ cà sa. Thầy Xá Lợi Phất hoan hỷ nhận và chú nguyện rằng: “Nguyện chư vị đời sau sớm được độ thoát”. Và như sở nguyện, hôm nay bốn vị này có duyên gặp và được thầy Xá Lợi Phất hóa độ”.

Câu chuyện này muốn nhắn nhủ chúng ta cần lưu ý là không nên kể công. Miệng vì tranh giành công lao, mới mang đến họa diệt thân. Trong một đoàn thể cũng vậy, nếu mọi người đều cho rằng mình là người quan trọng nhất, chắc chắn đoàn thể ấy sẽ bị tổn thất rất lớn, điểm này hy vọng đại chúng luôn luôn ghi nhớ.

Lớp giáo dục Phật Pháp Phước Nghiêm, ngày 12 tháng 11 năm 2011