Thái Tử Nhẫn Nhục Khải
Hòa Thượng Thích Đức Niệm

Trong kinh Thiền Bí Yếu Pháp, A Nan thuật lại rằng: Một thuở nọ, đức Phật cùng với chúng đệ tử tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi người đang ở nước Xá Vệ trong vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây thái tử Kỳ Ðà, thì tôn giả Ma Ha Ca Diếp dẫn người đệ tử của mình tên là A Kỳ Ðạt Ða đến ra mắt đảnh lễ đức Phật, rồi thưa: "Bạch đức Thế Tôn! A Kỳ Ðạt Ða theo con tu học trọn hạnh đầu đà, ngày đêm tinh tấn trải đã 5 năm, tâm an trụ thâm sâu thiền định, đạt được đạo quả A na hàm. Ông tiếp tục cố gắng hết sức để đạt đạo quả A la hán mà không thể đạt tới được. Ông khẩn cầu tha thiết xin phương pháp tu để đạt được quả Thanh văn tối hậu. Con nhập định quán sát thì thấy ông còn vướng mắc nghiệp chướng khó mà đạt đến đạo quả A la hán như ông mong muốn. Nhưng A Kỳ Ðạt Ða nhất quyết phải đạt cho kỳ được quả vị cùng tột Thanh văn, dù phải bỏ thân mạng, chứ nhất định không cam chịu lưu trệ ở quả A na hàm. Con thấy đạo lực của con không thể giúp ông đạt thành tâm nguyện, nên con dẫn ông ấy đến đây cầu xin Thế Tôn từ bi gia hộ khai thị cho ông tỏ ngộ, để ông đạt thành sở nguyện". 
 
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp vừa dứt lời thì A Kỳ Ðạt Ða liền đảnh lễ quỳ gối chấp tay khẩn thiết bạch Phật: "Kính lạy đức thiên nhân Ðạo Sư, mong Ngài từ bi thương xót khai đạo cho con. Không biết bởi nghiệp chướng gì ngăn ngại con phải bị ngưng trệ nơi quả A na hàm mà không tiến lên được đạo quả A la hán, dù con hết tâm lực tu hành!"
 
Ðức Phật từ hòa bảo A Kỳ Ðạt Ða rằng: "Lành thay A Kỳ Ðạt Ða! Ông hỏi việc ấy! Vậy ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, ta sẽ vì ông mà giải nói: Thuở đời quá khứ vô lượng kiếp về trước, lúc đó có đức Phật Ðại Quang Minh ra đời thuyết pháp độ vô số chúng sanh. Thời bấy giờ có Quốc vương nước Ba La Nại tên là Phạm Ma Da, thái tử của quốc vương này là Nhẫn Nhục Khải. Thái tử Nhẫn Nhục Khải tin sâu Phật Pháp, không sát sanh, chuyên tâm tu Thập Thiện, thực hành sáu pháp Ba la mật, chí thành hành đạo, không thiết ngôi vua cao quý, chỉ một lòng nguyện đạt đạo quả Vô thượng Bồ đề.
 
Trong nước có ông trưởng giả tên là Nhật Nguyệt Âm giàu sang phú quý, tôi tớ có đến hàng trăm, nhưng ông chỉ có người con trai độc nhất bỗng nhiên phát bệnh đại nhiệt phong nhập tâm, lòng sân hận bộc phát cuồng loạn mất trí, cầm dao chạy vào xóm làng tìm người chém giết. Ông trưởng giả thấy con điên loạn như thế rất đỗi buồn lo. Vì quá thương con, nên ông bưng lư trầm khói hương nghi ngút đi khắp bốn cửa thành rải hoa phát nguyện: "Nếu thế gian này có vị thần tiên lương y, thánh nhân nào cứu được con tôi lành bệnh, thì tôi nguyện đem hết tất cả của cải sở hữu dâng hiến không một chút luyện tiếc".
 
Ðang lúc đó, thái tử Nhẫn Nhục Khải ra thành dạo chơi, thấy đại trưởng giả vì quá thương con, mà phát nguyện xả bỏ hết tài sản không chút tiếc nuối, thái tử thấy vậy động lòng từ tâm về mối tình thâm phụ tử, nên chấp tay ngước mặt lên trời thầm nguyện rằng: "Hỡi những đấng thần linh tiên nhân lương y thần dược, nên vì tình phụ tử của trưởng giả kia mà ra tay đến cứu hộ công tử".
 
Thái tử Nhẫn Nhục Khải thành tâm khấn vái vừa dứt lời, Ðại tiên nhân Nhựt Quang đang tu trên núi tuyết cảm đức thái tử, liền rời chỗ mình bay đến nói với trưởng giả: "Bịnh của công tử do đại nhiệt phong khởi đã nhập tâm, nên phát cuồng. Theo kinh tiên dạy thì phải lấy huyết của người hiền đức tu hạnh nhẫn nhục thoa vào mình công tử và lấy tủy của người thiện tâm độ lượng cho công tử uống thì mới lành bệnh được".
 
Vừa nghe Ðại tiên nhân nói xong, trưởng giả lo buồn suy nghĩ. Thái tử Nhẫn Nhục Khải thấy dáng điệu lo rầu đau khổ của trưởng giả, nên cảm thông liền hỏi: "Trưởng giả có việc chi nan giải mà ưu tư lắm vậy?"
 
Trưởng giả đáp: "Thưa thái tử! Ðại tiên nhân Nhựt Quang sau khi xem bệnh con tôi rồi bảo cho tôi biết rằng, muốn hết bệnh thì phải lấy huyết người tu nhẫn nhục thoa vào thân nó, và lấy tủy người nhân từ tán nhỏ cho nó uống thì bệnh mới khỏi". Tôi đang nghĩ cách nào để lấy tủy huyết của chính tôi để cho con tôi mau lành bệnh thì tối mới an lòng.
 
Thái tử Nhẫn Nhục Khải an ủi trưởng giả: "Tôi nghe kinh Phật dạy rằng, chúng sanh nào làm khổ cha mẹ thì sẽ bị đọa vào ác đạo". Nay trưởng giả vì thương con mà cắt thịt lấy huyết chẻ xương lấy tủy, hủy hoại thân thể như vậy, công tử sẽ phải bị đọa trong ba đường khổ biết bao giờ mới ra khỏi. Thôi, tôi xin làm việc đó thay cho trưởng giả để cho công tử sớm được lành bệnh. Nói xong, thái tử tay cầm dao nhọn đâm vào mình lấy huyết và tủy cho con ông trưởng giả. Ðược huyết tủy của thái tử Nhẫn Nhục Khải thì công tử liền hết bệnh.
 
Riêng về thái tử, sau khi tự tay cắt mình lấy huyết, chẻ xương lấy tủy cứu bệnh, thì trời đất rung động sáu lần, vua trời Ðế thích, Phạm Thiên và vô số Thiên tử kéo nhau đến chỗ thái tử đồng thanh ca ngợi tinh thần đại hùng lực đại từ bi của thái tử, và hỏi thái tử rằng: "Vì lòng từ bi cứu người mà hy sinh không tiếc thân mạng, hay vì muốn cầu được làm Phạm Vương, Chuyển Luân Thánh Vương, cầu sanh về cõi Trời hưởng phước lạc?"
 
Thái tử nói với trời Ðế Thích: "Tôi chỉ nhứt tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ đề. Nếu nguyện tôi thành thì xin cho thân thể tôi được hoàn nguyên như cũ". Thái tử vừa dứt lời, thân thể hoàn nguyên như trước, lại còn có phần khỏe đẹp hơn xưa. Liền đó thái tử nói kệ:
 
Nguyện khi tôi thành Phật 
Phổ độ khắp trời người 
Thân tâm không quản ngại 
Lòng thương giúp tất cả 
Ðều được trụ Niết bàn 
Ðược an lành vĩnh viễn.
 
Thái tử nói kệ xong, chư Thiên mưa hoa cúng dường, lại đem nhiều châu báu đến hiến cúng thái tử.
 
Ông trưởng giả thấy con mình lành bệnh, liền cho người chở hết vàng bạc châu báu đến dâng tặng cho thái tử để tỏ lòng đền ơn. Thái tử đem hết của báu đó bố thí khắp tất cả mọi người.
 
Ðức Phật nói đến đây, xoay về tôn giả Ma Ha Ca Diếp mà bảo rằng: "Nầy Ca Diếp! Vua nước Ba La Nại khi xưa đó không ai khác, chính là tiền thân của Phụ vương ta ngày nay. Còn trưởng giả Nguyệt Âm xưa kia chính là tiền thân Ma Ha Ca Diếp ông ngày nay đó. Người con ông trưởng giả thời đó chính là tỳ kheo A Kỳ Ðạt Ða đây. Vua trời Ðế Thích chính là ông Xá Lợi Phất ngày nay. Còn thái tử Nhẫn Nhục Khải chính là Thích Ca ta đây vậy".
 
 
Xá Lợi Phất Niết Bàn Trước Phật
Khi biết đức Phật sắp vào Niết bàn, tôn giả Xá Lợi Phất đã tận dụng khả năng thần thông trí huệ của mình giáo hóa vô số người phát tâm Bồ đề tu học đạo giác ngộ, rồi chính tôn giả đến trước đại chúng nói lớn rằng: "Thưa chư đại chúng! Tôi không yên lòng nhìn thấy cảnh đức Như Lai vào Niết bàn". Nói xong, tôn giả Xá Lợi Phất bay lên hư không dùng lửa thần thông tự thiêu đốt mình, làm sáng rực cả bầu trời mà vào Niết bàn.
 
Trước cảnh tượng lạ lùng khiến cho đại chúng ai nấy đều xúc động bàng hoàng thương tiếc, trầm lặng nhìn nhau, lắc đầu não ruột thầm than. Ðể giải tỏa không khí yên lặng nặng nề bao trùm nỗi hoài nghi trong lòng đại chúng, tôn giả A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước pháp tòa đảnh lễ đức Phật rồi kính cẩn thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Tại sao tôn giả Xá Lợi Phất lại vội vàng dùng lửa thần thông nhập diệt trước đức Thế Tôn, việc làm khiến cho đại chúng đều sửng sốt xót xa thương tiếc như vậy? Cúi mong đức Thế Tôn rủ lòng thương xót, vì giải tỏa sự nghi ngờ của đại chúng và chúng sanh đời sau mà giảng nói cho".
 
Ðức Phật dạy rằng: "Nầy A Nan! Chẳng những chỉ ngày nay Xá Lợi Phất nhập diệt trước khi Như Lai vào Niết bàn đâu, mà nhiều kiếp về trước ông ấy cũng đã làm như vậy rồi".
 
A Nan thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Trong những kiếp quá khứa tôn giả Xá Lợi Phất cũng đã từng làm như thế, vậy việc ấy ý nghĩa như thế nào? Cúi xin đức Thế Tôn dủ lòng từ bi giảng nói những nguyên nhân sâu xa đó để cho Ðại chúng dứt mối nghi ngờ".
 
Ðức Phật bảo A Nan rằng: "Nầy A Nan! Ông hãy lắng nghe cho kỹ, cách đây hơn một kiếp A tăng kỳ, có vị quốc vương tên là Ðại Quang Minh tu hạnh bố thí không nghịch ý. Hằng tháng nhà vua cho voi ngựa xe cộ chở thức ăn áo quần thuốc men đồ dùng ra bốn cửa thành bình đẳng bố thí cho những người thiếu thốn. Dân chúng các tiểu quốc đều đến nhận lãnh đồ bố thí của nhà vua. Ðức bố thí của vua Ðại Quang Minh đã khiến cho dân chúng bốn phương đều được ấm no, đất nước thái bình thạnh trị. Tiếng thơm đồn xa, khắp thiên hạ nức lòng ca ngợi ân đức của nhà vua. Lúc bấy giờ có vị Tiểu vương nước láng giềng thấy sự thạnh trị hùng cường của nước Ba La nại và vua Ðại Quang Minh được khắp nhân gian bốn phương thiên hạ tôn sùng ân đức như cha mẹ, nên đem lòng ganh ghét oán thù.
 
Vị Tiểu quốc vương nước láng giềng nầy biết vua Ðại Quang Minh tu hạnh bố thí bất nghịch ý, nên đã triệu tập quần thần hỏi rằng: "Nầy các khanh! Trong các khanh ai là người có thể vì ta đến kinh đô nước Ba La Nại để xin đầu nhà vua Ðại Quang Minh đem về đây, ta sẽ trọng thưởng chức đệ nhất quan đầu triều và ngàn cân vàng". Quần thần đều im lặng, không ai dám nhận lãnh sứ mạng nguy hiểm ấy cả. Trước sự im lặng đó, khiến cho Tiểu vương thất vọng buồn bực vô cùng.
 
Sau đó, Tiểu vương lại truyền lại khắp trong nước rằng, ai đến thành Ba La Nại xin được đầu vua Ðại Quang Minh đem về thì sẽ được trọng thưởng mười ngàn cân vàng. Lúc ấy có người Bà la môn nghe được phần thưởng quá to lớn như vậy sanh lòng tham, nên đã yết kiến Tiểu vương, xin nhận lãnh xứ mạng đó. Tiểu vương vô cùng mừng rỡ, liền ra lệnh cấp lương thực ngựa xe và thúc dục người Bà la môn gấp rút lên đường. Trải hơn tháng trời lên núi trèo đèo vượt rừng băng suối, người Bà la môn mới đến được nước Ba La Nại.
 
Khi người Bà la môn đến trước cửa thành Ba La Nại thì quả đất bỗng nhiên chấn động nứt nẻ, bầu trời u ám lạnh buốt, chim muông sợ hãi bay tứ tán, mặt trăng lu mờ, sao băng, tinh tú chuyển động mất vị trí, suối hồ ao giếng cạn khô, hoa quả héo sầu, cây lá vàng úa rơi rụng, hiện tượng tiêu điều thê thảm hiển bày khắp cả nước Ba La Nại, khiến cho dân chúng kinh hãi lo âu.
 
Lính gác cửa thành thấy kẻ lạ Bà la môn vừa đến thì xuất hiện nhiều hiện tượng suy đồi kinh hoàng, nên hỏi người Bà la môn về xuất xứ từ đâu và mục đích đến đây để làm gì? Người Ba la môn kể lể nỗi cực khổ đã trải qua trên đường đi từ tiểu quốc lân bang đến đây. Và y đến chỉ mong được yết kiến vua Ðại Quang Minh để trình bày việc quan trọng. Dù mấy lần quan giữ cửa gạn hỏi việc quan trọng ấy là việc gì, người Bà la môn vẫn giữ bí mật không nói ý định của mình, mà chỉ nằng nằng nài nỉ xin được yết kiến Ðại vương. Lính gác cửa thành vẫn quyết không cho vào. Người Bà la môn quyết tâm đứng ngoài cửa thành suốt bảy ngày đêm, và cuối cùng nói sự thật ý định của mình là, nghe Ðại vương Quang Minh tu hạnh bố thí bất nghịch ý, tiếng thơm đồn xa, nên đến đây ra mắt để được xin cái đầu của Ðại vương.
 
Vừa nghe, quân lính gác thành nổi khí xung thiên, giận dữ đánh đuổi quát mắng, nếu không có sự can gián kịp thời thì người Bà la môn không toàn tánh mạng. Thấy vậy, viên tướng ngự lâm quan đem việc xảy ra ngoài cửa thành trong bảy ngày qua tâu với vua Ðại Quang Minh. Nhà vua nghe kể xong đầu đuôi câu chuyện, liền hạ lệnh quân gác cửa thành cho người Bà la môn vào triều ra mắt.
 
Người Bà la môn quỳ trước bệ rồng giả vờ khóc lóc kể lể về nỗi khổ cực hiểm nguy trên đường đi, nỗi nhục nhã bị quân lính giữ thành hành hạ bảy ngày qua. Người Bà la môn tiếp tục lạy lục lia lịa, khóc than khẩn thiết thưa: "Dù vậy cũng không quản ngại. Kẻ tiện dân nầy từ xa đến đây được yết kiến Ðại vương là vạn phúc lắm rồi! Dù có bao khổ nhục đi nữa cũng chẳng đáng gì. Chỉ mong Ðại vương thương tình hứa khả cho xin một điều duy nhất thôi, thì kẻ tiện dân cũng thỏa nguyện lắm rồi".
 
Vua Ðại Quang Minh phán rằng: "Ðiều gì, nhà ngươi cứ nói tự nhiên, đừng e sợ".
 
Người Bà la môn vận dụng khổ nhục kế thiểu não với giọng khẩn thiết run run thưa: "Tâu Ðại vương! Ðức độ nhân từ cao cả của Ðại vương rộng lớn vang lừng bốn phương thiên hạ đều tôn sùng ngưỡng mộ bái phục. Hạnh tu bố thí bất nghịch ý của Ðại vương mười phương thánh thần trời đất đều chứng giám. Ðức độ nhân từ của Ðại vương chỉ có một không hai trên đời. Tiện dân từ vạn dặm lặn lội gian nan, cam chịu vô cùng cực khổ đến đây, chỉ mong được Ðại vương mở lượng hải hà mà bố thí đầu của Ðại vương, thì ơn mưa móc cứu nhân độ thế của Ðại vương, thật vô lượng vô biên, tiện dân nầy nghìn triệu kiếp ghi xương khắc cốt không dám quên".
 
Người Bà la môn vừa dứt lời, các vị đại thần nhìn nhau, nhao nhao lớn tiếng, nổi giận, căm tức cực độ. Muốn lôi cổ người Bà la môn ra chém đầu ngay.
 
Nhưng vua Ðại Quang Minh vẫn thái độ ung dung trầm tĩnh từ hòa can gián quần thần: "Này các khanh! Các khanh đừng làm nghịch ý người".
 
Rồi nhà vua quay sang dùng lời hiền hòa an ủi người Bà la môn. Người Bà la môn được thế lại tỏ ra thảm não khẩn thiết quỳ tâu tiếp: "Muôn tâu Thánh lượng! Ân đức bố thí bất nghịch ý của Thánh thượng bốn phương thiên hạ xa gần ai nấy cũng nức lòng khâm phục ca tụng tôn sùng ngưỡng mộ. Cho dù kẻ tiện dân nầy có chịu gian nan mất mạng mà được Ðại vương bố thí bất nghịch ý, thì kẻ tiện dân nầy còn gì sung sướng phước đức cho bằng".
 
Nghe người Bà la môn nói xong, nhà vua trầm tư suy nghĩ: Từ vô thỉ kiếp đến nay, ta đã bao lần sanh tử tử sanh cũng chỉ vì tham tiếc cái thân nầy. Nay ta vì hoàn thành hạnh nguyện bố thí bất nghịch ý, để cầu đạo quả Vô thượng Bồ đề phổ độ chúng sanh, thì có xá gì cái thân ô uế giả tạm nầy mà tiếc? Suy nghĩ một hồi, rồi nhà vua nói với người Bà la môn rằng: "Ngươi yên tâm, không có gì trở ngại. Ta sẽ làm cho ngươi toại nguyện. Xin hãy chờ ta trong vòng bảy ngày để ta có thời gian sắp đặt người giao phó ngôi vua, phu nhân, thái tử và quốc thành, rồi ta sẽ tặng đầu ta cho".
 
Quần thần và phu nhân, thái tử cùng hoàng tộc nghe nhà vua quyết định đem đầu cho người Bà la môn, tất cả đều vô cùng xúc động bỏ ăn mất ngủ lăn lộn khóc lóc thở than, tìm đủ mọi cách can gián nhà vua nên bỏ ý định. Cùng lúc ấy, hơn năm trăm vị đại thần uất hận đau khổ đập mình xuống đất than thở, họ muốn phanh thây nuốt sống người Bà la môn kia. Họ hỏi tại sao người Bà la môn không xin châu ngọc vàng bạc quý báu mà lại cứ nằng nằng nài nỉ xin cho được cái đầu máu mủ làm gì? Họ thương lượng với người Bà là môn muốn đổi cái đầu làm bằng bảy thứ báu kim cương thay vì đầu của nhà vua, để cho người Bà la môn được giàu sang đời đời. Nhưng thuyết phục dẫn dụ thế nào đi nữa, người Bà la môn cũng đều từ chối, chỉ nhất quyết xin cho được cái đầu của vua Ðại Quang Minh mà thôi.
 
Mặc dù quần thần, phu nhân, thái tử và hoàng tộc khóc lóc lạy lục van xin, nhưng nhà vua lòng đã quyết nói: "Nay ta vì các người và hết thảy chúng sanh mà xả thân bố thí, không vì lý do gì làm ngăn cản hạnh nguyện bố thí bất nghịch ý của ta".
 
Nói rồi, nhà vua chấp tay thành kính hướng về bốn phương đảnh lễ phát nguyện: "Kính lạy mười phương chư Phật, chư vị Bồ Tát từ bi thương sót chứng minh gia hộ cho con được trọn thành hạnh nguyện". Nói xong, tự tay cắt lấy đầu trao cho người Bà la môn. Ngay lúc đó, trời đất rúng động, trên hư không nhạc trời chúc tụng, mưa hoa rải khắp trên mình nhà vua.
 
Ðang trong lúc nhà vua thành tâm lễ lạy mười phương, phát nguyện thực hành hạnh bố thí bất nghịch ý, thì trong quần thần có vị đệ nhất quan đầu triều không nhẫn tâm nhìn thấy cảnh tượng đau lòng của nhà vua xả thân cắt đầu bố thí một cách đau đớn, nên vội vào phòng riêng một mình tự sát trước khi vua Ðại Quang Minh thực hành tâm nguyện đầu. Và trải qua nhiều kiếp, tôn giả Xá Lợi Phất thực hành tâm nguyện chết trước ta như thế, chứ nào phải chỉ riêng trong kiếp nầy!"
 
Nói đến đây, đức Phật bảo ngài A Nan rằng, vị quan đệ nhất đại thần đó chính là tiền thân Xá Lợi Phất. Kẻ Bà la môn kia là tiền thân Ðề Bà Ðạt Ða. Còn vua Ðại Quang Minh chính là tiền thân của Thích Ca Như Lai ta đây vậy.
Trích từ: Lược Truyện Tiền Thân Đức Phật
Báo Lỗi Đánh Dấu Đã Đọc

Thẻ

Kinh Sách Liên Quan

   
1 Lược Truyện Phật Thích Ca, Thượng Tọa Thích Chân Tính Tải Về
2 Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật, Hòa Thượng Thích Thái Hòa Tải Về
3 Truyện Tranh Về Đức Phật, Tỳ Kheo Thích Thanh Giác Tải Về
4 Cuộc Đời Đức Phật, Hòa Thượng Thích Trí Chơn Tải Về
5 Lược Truyện Tiền Thân Đức Phật, Hòa Thượng Thích Đức Niệm Đọc Tiếp

Lòng Kiên Nhẫn
Sa Môn Thích Tâm Thuận

Tàn Nhẫn Thành Tánh Tai Ương Cả Nhà
Sa Môn Thích Tâm Thuận

Nhẫn Nhục Tiên Nhân
Hòa Thượng Thích Đức Niệm

Nhẫn Nhục
Thượng Tọa Thích Nguyên Chơn