Kinh Văn: Hán Văn: Phật ngôn: "Từ thân xuất gia, thức tâm đạt bổn, giải Vô vi Pháp, danh viết Sa Môn. Thường hành nhị bách ngũ thập giới, tiến chỉ thanh tịnh, vi tứ chân đạo hạnh, thành A la hán."
Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Những vị từ giả người thân để xuất gia, biết tường tận tâm tánh, thấu hiểu pháp Vô vi, được gọi là Sa Môn. Họ thường xuyên hành trì 250 giới, tiến chỉ thanh tịnh, tu hành bốn đạo hạnh chân chánh, nên được thành bậc A la hán."
Lược giảng:
Đây là chương đầu tiên trong số bốn mươi hai chương. Chương này nói rằng bậc Sa Môn có thể chứng đắc quả A la hán.
Đức Phật dạy: "Những vị từ giả người thân để xuất gia..." Theo giáo pháp nhà Phật, khi kẻ làm con muốn xuất gia đi tu thì phải được sự ưng thuận của cha mẹ, chứ không như ở nước Mỹ, cứ trên mười tám tuổi là được tự do, muốn làm gì thì làm. Trước kia, vì tùy thuận theo phong tục quốc gia nên Phật giáo ở Trung Hoa và Ần Độ đòi hỏi kẻ làm con phải thưa rõ chí nguyện của mình với song thân và xin phép cáo từ: "Thưa cha mẹ, con đi xuất gia!" Đó gọi là "từ giả người thân." "Xuất gia" có nghĩa là hiến dâng cả thân, tâm và tánh mạng của mình cho Tam Bảo, và vĩnh viễn không còn đa mang những công việc của người thế tục nữa. "Từ giả người thân để xuất gia, " tức là từ biệt cha mẹ để rời gia đình, đi đến nơi đạo tràng của Phật, Pháp, Tăng mà tu học, gần gũi ngôi Tam Bảo.
"Xuất gia" cũng có nghĩa là "Xuất thế tục gia" ra khỏi cái gia đình của thế gian. Mỗi gia đình đều có những rắc rối riêng của nó, giữa bà con quyến thuộc với nhau lại thường hay xích mích, gây gỗ, chẳng có gì là thực sự vui vẻ, hạnh phúc cả. Vì thế, người ta muốn rời bỏ căn nhà thế tục và cũng là nhà lửa này.
Lại nữa:
Tam giới vô an, do như hỏa trạch.
(Ba cõi không yên, giống như nhà lửa.)1
Cho nên "xuất gia" cũng bao hàm ý nghĩa "xuất tam giới gia" ra khỏi căn nhà Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc giới.
"Xuất gia" còn có nghĩa là "xuất phiền não gia" ra khỏi nhà phiền não. Vì những người còn chung sống với gia đình đều có phiền não, không được an vui thực sự, nên họ muốn xuất gia. Một khi đã xuất gia đi tu thì phải đoạn trừ phiền não và phát tâm Bồ đề; như thế mới gọi là "xuất gia."
"Biết tường tận tâm tánh." Những vị từ giả thân nhân để đi tu ấy có thể nhận biết bổn tâm của chính họ một cách thấu đáo. Quý vị nên biết:
Tâm sanh, chủng chủng pháp sanh,
Tâm diệt, chủng chủng pháp diệt,
(Tâm sanh, các pháp đều sanh,
Tâm diệt, các pháp đều diệt!)
Ngoài tâm thì không có pháp, và ngoài pháp thì không có tâm. Tâm với pháp chẳng qua chỉ là một! Nếu biết rằng ngoài pháp vốn không có tâm, thì quý vị sẽ hiểu được tánh biến kế chấp, và như thế gọi là "thức tâm" biết được bổn tâm của mình. Quý vị nên biết tâm và tánh xưa nay vốn không có thực thể, không có hình tướng. Nếu hiểu được đạo lý này, tất quý vị sẽ hiểu được rằng tánh y tha khởi là hư huyễn. Tánh biến kế chấp vốn là không, mà tánh y tha khởi cũng là giả tạm, hư huyễn không có cái nào là thật sự tồn tại cả. Hiểu được như thế mới gọi là "thức tâm đạt bổn biết tường tận tâm tánh." vậy!
"Thấu hiểu Pháp Vô vi." Hiểu pháp Vô vi tức là hiểu pháp Chân như với tất cả các pháp không phải là một mà cũng chẳng phải là hai. Nếu quý vị hiểu được đạo lý này, tức là Chân như cùng tất cả các pháp tuy không đồng một thể song cũng chẳng khác biệt gì nhau, tất quý vị sẽ hiểu được tánh viên thành thực, tỏ ngộ được bản thể của mình. Đó gọi là "thấu hiểu Pháp Vô vi" vậy.
"Được gọi là Sa Môn." Nếu quý vị có thể làm được như thế từ giả người thân để xuất gia, biết tường tận tâm tánh và thấu hiểu Pháp Vô vi thì quý vị mới xứng đáng để được mang danh hiệu Sa Môn!
"Sa Môn" là tiếng Phạn, và có nghĩa là "cần tức" (siêng năng, chấm dứt); đó là:
Cần tu Giới, Định, Huệ,
Tức diệt tham, sân, si.
(Siêng tu Giới, Định, Huệ,
Dứt sạch tham, sân, si.)
Sau khi xuất gia, quý vị không nên "siêng tu tham, sân, si; dứt sạch Giới, Định, Huệ." Nếu quý vị càng ngày càng không có trí huệ, càng ngày càng thêm ngu si, thì đó gọi là "siêng tu làm sao tham, siêng tu làm sao sân và siêng tu làm sao si!" Rồi hằng ngày, tham sân si thì không dứt bỏ được, mà Giới, Định, Huệ cũng chẳng chút tiến triển. Dần dần, quý vị không còn để tâm nghiên cứu xem mình cần phải tu hành như thế nào, phải trì Giới, tu Định, tu Huệ ra làm sao nữa; và những phiền não trong lòng quý vị cứ càng ngày càng gia tăng.
Vì sao lại ra nông nỗi như vậy? Đó là vì nghiệp chướng từ các đời trước của quý vị quá nặng nề. Các nghiệp báo quá nặng nề ấy đeo đuổi theo quý vị, xúi giục quý vị đừng phát Bồ đề tâm, và xui khiến quý vị cứ xoi mói cái sai của kẻ khác! Từ sáng đến tối, quý vị cảm thấy mình là giỏi giang hơn ai hết, thậm chí còn tài ba lỗi lạc hơn cả thầy của mình nữa: "Thầy tôi không sánh kịp tôi đâu! Quý vị xem, tôi có biết bao là bản lãnh. Có thể nói rằng trên trời, dưới trời, chỉ độc nhất mình tôi là tôn quý mà thôi!" Những kẻ có quan điểm như thế chắc chắn sẽ đọa lạc!
Đã nhiều phen tôi trông thấy trong chúng xuất gia của chúng ta ở đây, có người ngay cả chắp tay mà cũng không biết chắp sao cho đúng chỉ úp hai bàn tay lại với nhau một cách lộn xộn, tùy tiện. Chắp tay thì phải chắp trước ngực, đằng này quý vị lại chắp tay trước mắt! Khi chắp tay, mười ngón tay đều phải chụm sát vào nhau, và để ngay ngắn đằng trước ngực; chứ chẳng có ai chắp tay như kiểu của quý vị cả! Xuất gia đã bao nhiêu năm mà ngay cả chắp tay cũng không biết cách chắp, lạy Phật cũng không biết cách lạy, thắp nén nhang cũng không biết cách thắp, thì chao ôi, thật là đáng thương lắm thay! Nếu tự mình không biết thì phải chú ý nhìn xem những người đã tu hành lâu năm, coi cách thức họ chắp tay như thế nào mà học theo đó cho đúng chứ!
Khi giảng Sa Di Luật Nghi, tôi có dặn quý vị là đừng thọc ngón tay vào lỗ mũi. Tại sao lại có chuyện đó được? Là vì quý vị chắp tay mà chắp quá cao, cho nên đầu ngón tay mới đụng phải mũi! Chắp tay thì phải chắp ở ngang tầm ngực, chứ không phải ngang miệng, không phải ngang mũi, và cũng chẳng phải ngang mắt. Chắp tay thì phải chắp ngay ngắn ở trước ngực! Nếu chỉ một việc nhỏ nhặt như vậy mà cũng không hiểu rõ, thì làm sao tu Đạo cho được chứ! Nếu cứ theo chiều hướng ấy, thì quý vị càng tu Đạo chỉ càng không hiểu Đạo mà thôi! Tu Đạo thì dứt khoát không được bê bối, không được cẩu thả; bởi hễ sơ xuất một chút là chẳng thể thành công, hễ "sai một ly là đi một dặm" ngay!
"Họ, các vị Sa Môn, thường xuyên hành trì 250 giới." "Thường xuyên hành trì" có nghĩa là các ngài luôn luôn tu hành đúng theo giới luật và không hề phạm giới. Nhờ vậy, sở học về giới luật của họ được tăng trưởng.
"Tiến chỉ thanh tịnh" "Tiến" là hướng về phía trước mà làm; và "chỉ" là đình chỉ, ngừng lại. Bất luận quý vị đang làm hay không làm gì cả, bất luận là trong lúc động hay tĩnh, quý vị cũng phải thanh tịnh, trong sạch, chẳng có chút nhiễm ô, nhơ bợn.
"Tu hành bốn đạo hạnh chân chánh." "Bốn đạo hạnh chân chánh" chính là Pháp Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt và Đạo. Các vị Sa Môn đều siêng năng tu học Pháp Tứ Đế.
"Nên được thành bậc A la hán, chứng được Thánh quả."
"A la hán" là tiếng Phạn, và có ba nghĩa. Vì chứa đựng tới ba nghĩa nên từ ngữ này được xếp vào loại "đa hàm bất phiên" (từ ngữ bao hàm nhiều nghĩa thì không phiên dịch); và do đó vẫn giữ nguyên lối phát âm theo tiếng Phạn là "A la hán (Arhat)." Trường hợp giữ lại âm tiếng Phạn này gọi là "phiên tự bất phiên âm" (dịch chữ, không dịch âm) tức là chữ thì dịch nghĩa sang Hán văn, còn âm thì vẫn giữ theo cách phát âm của Phạn ngữ.
"A la hán" có ba nghĩa là Sát tặc, Ứng cúng và Vô sanh.
1. Sát tặc (kẻ giết giặc). Bậc A la hán rất lợi hại, hễ nơi nào có giặc cướp thì các Ngài liền tìm đến tận nơi để tiêu diệt bọn chúng. Song, như thế chẳng phải là các ngài đã phạm giới sao? Không phải! Bởi vì "sát tặc" ở đây không phải là giết những tên giặc ở ngoài, mà giết bọn giặc phiền não ở bên trong! Tại sao lại có bọn giặc ở bên ngoài? Là vì có bọn giặc phiền não, có bọn giặc tham sân si chực sẵn ở bên trong! Tâm tham là một tên giặc, tâm sân là một tên giặc, và tâm si cũng là một tên giặc đó là những tên giặc cần phải bị tiêu diệt. Vậy, nghĩa thứ nhất của từ A la hán là "sát tặc."
2. Ứng cúng. "Ứng cúng" nghĩa là xứng đáng để thọ nhận sự cúng dường của trời và người. Bậc A la hán đã chứng quả vị chính là một đấng Thánh nhân đã khai ngộ. Người nào cúng dường cho một bậc A la hán, thì sẽ được vô lượng vô biên phước báo, không có cách gì tính đếm cho xuể!
Tỳ khưu là nhân mà A la hán là quả. Làm Tỳ khưu tức là gieo cái nhân thành A la hán, và thành A la hán là kết quả của việc đã làm Tỳ khưu. Do đó, khi là Tỳ khưu ở nhân địa, thầy Tỳ khưu trồng nhân là Phá ác thì sẽ được quả là Sát tặc, nhân là Khất sĩ thì quả là Ứng cúng, và nhân là Bố ma thì quả là Vô sanh.
3. Vô sanh. Thế nào gọi là "Vô sanh" tức là "liễu sanh tử, " có nghĩa là sự sanh tử đã kết thúc, không còn cái khổ của sự sanh ra và chết đi nữa. Tuy nhiên, sự sanh tử mà các bậc A la hán dứt được là Phần đoạn Sanh tử, còn Biến dịch Sanh tử thì các ngài vẫn chưa dứt được, do đó các ngài chỉ thành A la hán mà thôi.
Các bậc Sa Môn hành trì 250 giới của Tỳ khưu (hoặc 348 giới của Tỳ khưu ni) tức là làm cho sự học hỏi về Giới của họ được thành tựu, giữ gìn sự thanh tịnh trong mọi việc, mọi lúc, tức là làm cho sự học hỏi về Định được thành tựu, và tu tập bốn đạo hạnh chân chánh tức là làm cho sự học hỏi về Huệ được thành tựu. Khi việc tu học Giới Định Huệ được viên mãn, thì tham, sân, si cũng bị trừ sạch. Dứt sạch tham, sân, si, thì chứng được quả vị A la hán.
Quả vị A la hán có tất cả bốn bậc; đó là Sơ quả A la hán, Nhị quả A la hán, Tam quả A la hán và Tứ quả A la hán. Phải chứng được Tứ quả A la hán thì mới chính thức chấm dứt sanh tử!
Hán Văn: "A la hán giả, năng phi hành biến hóa, khoáng kiếp thọ mạng, trú động thiên địa."
Dịch Nghĩa: "Các bậc A la hán đều có thể phi hành, biến hóa, có thọ mạng lâu dài tới cả khoáng kiếp và làm động trời đất nơi họ an trụ."
Lược giảng:
"Các bậc A la hán có thể phi hành, biến hóa." Thế nào gọi là "A la hán"? Vừa rồi, chúng ta nói đến Tứ quả A la hán. Chứng đắc được quả vị thứ tư trong hàng A la hán tức là ở vào vị trí không cần phải học nữa, nên gọi là Vô học vị. Riêng các bậc A la hán từ Sơ quả đến Tam quả thì đều ở vị trí còn phải học hỏi thêm, gọi là Hữu học vị. Tứ quả A la hán còn được gọi là Chứng Đạo vị, tức là vị trí đắc Đạo; Nhị quả và Tam quả thì đều được gọi là Tu Đạo vị, tức là vị trí đang còn tu Đạo; và Sơ quả thì được gọi là Kiến Đạo vị, vị trí thấy được Đạo.
Phần sau của Kinh Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương này có dạy rằng:
"Thận vật tín nhữ ý, nhữ ý bất khả tín."
(Hãy thận trọng, chớ tin nơi ý nghĩ của ông; ý nghĩ của ông chẳng thể tin được.)
Quý vị cần phải đặc biệt lưu tâm, đừng nên tin tưởng ý niệm của mình. Mọi ý niệm của quý vị đều không đáng tin cậy! Phải chứng được quả A la hán rồi, thì mới tin được ý mình. Chỉ khi nào quý vị chứng được quả vị thứ tư của hàng A la hán, bấy giờ, quý vị mới có thể tin tưởng ở ý niệm của chính mình được. Bậc Thánh nhân đã chứng đắc Tứ quả A la hán thì không còn ái dục các ngài đều đã cắt được lòng tham ái và lòng tham dục.
Căn cứ vào đâu để biết được đó là một bậc Thánh nhân đã chứng đắc quả vị thứ tư của hàng A la hán? Khi bậc Thánh nhân hàng Tứ quả bước đi, chân không hề chạm đất bàn chân ngài thường ở cách mặt đất khoảng ba phân, vì như thế mới khỏi giẫm chết các côn trùng hoặc kiến. Ngài chẳng phải như phàm phu chúng ta, thường đạp chết côn trùng và kiến trên lối đi. Ngài không hề giẫm lên trùng và kiến ở dưới chân; điều này chứng minh rằng ngài đã chứng Thánh quả! Không những bậc Thánh nhân ở hàng Tứ quả, mà ngay cả các bậc ở hàng Sơ quả cũng có được khả năng ấy; cho nên trong Kinh mới dạy rằng: "Các bậc A la hán đều có thể phi hành, biến hóa." Các bậc Tứ quả A la hán muốn đến nơi nào là có thể đến ngay nơi đó, và các ngài đều có khả năng biến hóa khôn lường.
Lúc ở Đài Loan, tôi có viếng thăm ngài Quảng Khâm, một vị sư tu hành đã lâu năm. Khi tôi tỏ ý mời ngài sang Mỹ, thì ngài chỉ vào ngực mình và nói rằng ngài có thể đến bất cứ lúc nào ngài muốn! Ngài muốn đến là đến được; và ngài tự biết mình có đến, chứ người khác thì vẫn không hay biết gì cả. Chỉ những người đã khai nhãn mới có thể thấy được là ngài có đến mà thôi.
Các bậc Tứ quả A la hán không những chỉ có khả năng chuyển dịch tinh thần mà còn có thể chuyển dịch cả nhục thể của các ngài đến bất cứ nơi nào tùy ý nữa. Các ngài không cần mua vé máy bay, mà chỉ du hành trong không trung; cho nên nói: "Có thể phi hành, biến hóa." Các bậc A la hán có mười tám phép biến hóa, và những phép biến hóa ấy đều bất khả tư nghì.
"Có thọ mạng lâu dài tới cả khoáng kiếp." "Khoáng kiếp" tức là trường viễn kiếp, và cũng là vô lượng kiếp; nghĩa là quãng thời gian lâu xa, không thể nào tính đếm được. Các bậc Tứ quả A la hán muốn sống bao nhiêu lâu cũng được, không trở ngại gì cả. Khi thân thể này hư hoại, già nua cằn cỗi, thì các ngài có thể đổi lấy một thân thể khác. Vì các ngài có thể thay đổi thân thể một cách rất dễ dàng, cho nên nói rằng các ngài "có thọ mạng lâu dài tới cả khoáng kiếp."
Các Thánh nhân chứng đắc Tứ quả A la hán đều đạt được sự tự do về vấn đề sanh tử. Các ngài thật sự được tự do muốn sống, thì cứ tiếp tục sống; muốn chết, thì bất cứ lúc nào cũng có thể chết được. Các ngài muốn chết đứng, thì đứng mà chết; muốn chết ngồi, thì ngồi mà chết; muốn chết khi đang đi, thì chết khi đang đi; muốn chết trong lúc ngủ, thì chết trong lúc ngủ! Các ngài rất tự do, không ai có thể cai quản được cả. Chính vì thế mà nói là các ngài "có thọ mạng lâu dài tới khoáng kiếp" và được gọi là bậc "Vô sanh" không sanh ra mà cũng chẳng chết đi!
"Và làm động trời đất nơi họ an trụ." Các bậc A la hán trú ngụ ở nơi nào, thì Thiên thần và Địa thần đều sanh lòng cảm động, và đều thọ nhận sự giáo hóa của các ngài; đó là ý nghĩa của câu "trụ động thiên địa làm rúng động trời đất nơi các ngài an trụ." Nơi nào các ngài an trụ cũng đều có Trời, Rồng, cùng Tám bộ chúng thường xuyên lui tới hộ pháp. Hễ nơi nào có một bậc A la hán an trụ, thì nơi đó rất bình yên, không hề có các loại tai nạn như gió lốc, gió xoáy, mưa bão, động đất, vỡ đê, sóng thần...xảy ra. Đó là vì các Thiện thần và các vị Hộ pháp luôn luôn ủng hộ bậc A la hán làm cho mọi việc có liên quan đến ngài đều được may mắn, thuận lợi.
Tuy nhiên, lắm lúc các bậc A la hán cũng gặp phải chuyện không may. Đó chính là "nghiệp cảm sở hiện" sự ứng hiện của những nghiệp chướng mà các ngài đã gây ra trong đời quá khứ. Thỉnh thoảng những tình cảnh như thế cũng có xảy ra. Bởi vì nếu sự tu hành ở nhân địa không được viên mãn, thì lúc ở quả địa sẽ phải chịu đựng nhiều khó khăn, gian khổ. Cho nên nói rằng:
Tu phúc bất tu huệ, tượng thân quải anh lạc,
Tu huệ bất tu phúc, La hán ứng cúng bạc.
(Tu phước mà không tu huệ, thì cũng như thân voi đeo chuỗi ngọc;
Tu huệ mà không tu phước, thì chẳng khác nào vị La hán ít được cúng dường.)
Có nhiều khi các bậc A la hán cũng không có cơm ăn, đi hóa duyên khất thực mà chẳng ai cúng dường cả! Đó là vì lúc ở nhân địa các ngài chỉ biết tu huệ chứ không biết tu phước, nên sau khi chứng được quả vị A la hán, các ngài không có phước báo, rất ít người cúng dường các ngài!
Câu "Trụ động thiên địa" cũng có thể được giải thích theo cách khác: Bất luận bậc A la hán làm gì, nhất cử nhất động của các ngài cũng đều làm cho trời đất bị chấn động, rung chuyển!
Trên đây là phần giải thích vắn tắt của từ ngữ "A la hán."
Kinh Văn:
Hán Văn: "Thứ vi A na hàm. A na hàm giả, thọ chung linh thần thượng thập cửu thiên, chứng A la hán."
Dịch Nghĩa: "Thứ đến là A na hàm. Khi bậc A na hàm mạng chung, linh thần sẽ lên trên cõi thứ mười chín, và chứng được quả vị A la hán."
Lược giảng:
"Thứ đến là A na hàm." Vị trí mà bậc Tứ quả A la hán chứng đắc là Vô học vị (không học nữa); còn bậc Tam quả A na hàm (Anagamin), bậc Thánh nhân chứng được quả vị thứ ba, thì vẫn còn ở vị trí Hữu học (còn phải học hỏi thêm). Bậc Nhị quả Tư đà hàm đã đoạn trừ sáu phẩm tư hoặc đầu của cõi Dục giới, và vẫn còn phải tiếp tục đoạn trừ nốt ba phẩm tư hoặc cuối nữa. Một khi đã đoạn trừ đi ba phẩm tư hoặc cuối ấy, ngài sẽ đắc Tam quả A la hán, thành bậc A na hàm. Bậc Thánh nhân chưa đoạn trừ được ba phẩm tư hoặc cuối ấy, được gọi là Tư đà hàm.
"Khi bậc A na hàm mạng chung, linh thần sẽ lên trên cõi trời thứ mười chín, và sẽ chứng được quả vị A la hán." Linh thần này, nếu làm quỷ, tức là thuộc âm thì gọi là thân trung ấm; còn nếu thuộc dương, thì gọi là linh thần, linh hồn, hoặc linh tánh. Vì bậc A na hàm chưa chấm dứt được sanh tử, do đó, khi thọ mạng của ngài chấm dứt, linh thần của ngài sẽ thăng lên trên cõi trời thứ mười chín.
Từ cõi trời Tứ thiên vương đếm trở lên cho tới Vô phiền thiên; thì cõi trời Vô phiền này là ở phía trên cõi trời thứ mười chín. Trên cõi trời thứ mười chín, bậc A na hàm sẽ chứng đắc quả vị A la hán. Do đó, tên của ngài có nghĩa là "bất lai" (không trở lại). Ngài không còn trở lại cõi nhân gian nữa! Đó là nói về vị A na hàm, bậc Thánh nhân chứng đắc quả vị thứ ba của hàng A la hán.
Vừa rồi, khi nghe nói là nơi nào có bậc A la hán an trụ thì nơi đó không có tai nạn, thì có nhiều người sanh lòng hoài nghi họ nghi ngờ rằng nơi bậc A la hán an trụ có thể không được thanh bình, yên ổn! Tôi không giải đáp nghi vấn này cho quý vị; song, bây giờ tôi sẽ thuật lại một vài sự cảm ứng xảy ra trong cuộc đời của Lão Hòa Thượng Hư Vân tại nước Trung Hoa.
Có lần, trong thời kỳ chiến tranh Trung Nhật, khi Lão Hòa Thượng Hư Vân ở tại Chùa Nam Hoa (gần tỉnh Quảng Đông), quân đội Nhật cho oanh tạc phi cơ dội bom khu vực ấy. Họ thả xuống mấy quả bom nhưng không có quả nào phát nổ cả!
Có người cho rằng đó chẳng qua chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên; song, nếu là tình cờ thì người khác cũng phải được gặp sự tình cờ ấy chứ! Nếu sự tình cờ không xảy đến cho quý vị, thì thế là thế nào? Còn nếu nói rằng "tình cờ" nghĩa là gặp phải lúc Nhật ném nhằm loạt bom không nổ, thế thì tại sao người khác lại không gặp được sự tình cờ như vậy! Tại sao sự tình cờ ấy chỉ xảy ra ở Chùa Nam Hoa mà thôi?
Một lần khác, khi Lão Hòa Thượng Hư Vân đang truyền Giới tại Chùa Vân Thê ở tỉnh Vân Nam, thì cây cối nơi ấy đều trổ hoa sen. Vì sao ở những nơi ngài không đến thì lại không có hiện tượng hoa sen nở rộ trên cây như thế? Chẳng những thế, trên các lá cây, lá rau mọc ở nơi đó đều có hiện lên hình tượng của Phật. Tuy nhiên, người đời vẫn không nhận biết được sức cảm ứng mạnh mẽ ấy, và vẫn cứ cho rằng đó chẳng qua chỉ là những điềm lành nhất thời mà thôi!
Lại nữa, khi Lão Hòa Thượng Hư Vân ở Chùa Nam Hoa, có một cây bách chết đã mấy trăm năm bỗng dưng bừng sống trở lại và đâm chồi nẩy lộc rất tươi tốt. Đó quả là một cảnh giới không thể nghĩ bàn, tương tự như trường hợp con chồn trắng (bạch hồ ly) đến xin quy y với ngài vậy.
Tất cả sự kiện này đều là những trường hợp bất khả tư nghì. Có điều, ngay lúc sự việc xảy ra thì người ta vẫn chưa nhận thức được vấn đề cho lắm; đợi đến khi Lão Hòa Thượng Hư Vân viên tịch rồi, thì ai nấy đều tán tụng, nói rằng Lão Hòa Thượng là bậc Thánh nhân đã chứng quả, là đấng Bồ tát tái thế! Chao ôi! Người đời là như thế cả khi sờ sờ trước mắt thì để cho vuột mất; vuột mất rồi thì lại hối tiếc, ăn năn. Con người quả là những sinh vật ngu si, kỳ quặc!
Hiện nay, tại nước Mỹ, tôi muốn đào tạo nên những vị Phật sống, Bồ tát sống, A la hán sống, cũng như A na hàm, Tu đà hàm và Tư đà hoàn. Người nào có thể dứt trừ lòng tham ái, thì người ấy sẽ có phần. Người nào không thể đoạn trừ lòng tham dục và tham ái những kẻ chẳng có chút triển vọng nào cả thì tôi cũng hết cách, không giúp đỡ gì được. "Tất cả đều do tâm tạo." quý vị muốn làm quỷ thì làm quỷ, muốn làm Phật thì làm Phật, muốn làm người thì làm người, muốn làm súc sanh thì làm súc sanh mọi sự đều tùy thuộc vào con đường mà tâm trí quý vị muốn hướng tới!
Quý vị chớ xem thường quyển Thập Pháp Giới Bất Ly Nhất Niệm Tâm (Mười Pháp Giới Không Ngoài Một Niệm Tâm)! Trong tương lai, chừng một ngàn năm sau, có thể sẽ có rất nhiều người nhờ xem quyển sách này mà được khai ngộ! Đó là chuyện của tương lai. Hiện tại, vẫn chưa biết được sẽ có ai khai ngộ hay không!
Kinh Văn:
Hán Văn: "Thứ vi Tư đà hàm. Tư đà hàm giả, nhất thướng nhất hoàn, tức đắc A la hán. Thứ vi Tu đà hoàn. Tu đà hoàn giả, thất tử thất sanh, tiện chứng A la hán. Aịi dục đoạn giả, như tứ chi đoạn, bất phục dụng chi."
Dịch Nghĩa: "Thấp hơn Tư đà hàm. Bậc Tư đà hàm còn một lần lên và một lần trở lại nữa là đắc quả A la hán. Thấp nữa là Tu đà hoàn. Bậc Tu đà hoàn còn bảy lần sanh và bảy lần tử nữa mới chứng được quả vị A la hán. Đoạn trừ ái dục thì cũng như chặt đứt tứ chi, không còn dùng lại nữa."
Lược giảng:
"Thấp hơn là Tư đà hàm." Bậc Thánh nhân thuộc hàng Nhị quả được gọi là Tư đà hàm. "Tư đà hàm" (Sakridagamin) là tiếng Phạn và có nghĩa là "nhất lai" (một lần trở lại). Đây là bậc Thánh nhân ở vị trí Tu Đạo. "Bậc Tư đà hàm còn một lần lên và một lần trở lại nữa là đắc quả A la hán." Thế nào gọi là "nhất lai"? Bởi bậc Tư đà hàm còn đến cõi trời một lần, và đến cõi người một lần nữa mà thôi. Do đó mà cũng gọi là "nhất thượng, nhất hoàn" một lần lên cõi trời và một lần trở lại chốn nhân gian.
Bậc Tư đà hàm đã đoạn trừ được sáu phẩm tư hoặc của cõi Dục giới. Thế nào gọi là "tư hoặc"? "Tư" là tư tưởng, ý nghĩ; và cũng là sự phân biệt. Nếu chỉ đơn thuần một cái "tư" mà thôi, không có chữ "hoặc" kèm theo, thì tư tưởng ấy cũng có thanh tịnh, trong sạch. Một khi quý vị dùng trí huệ để phân biệt, thì không gọi là tư hoặc.
"Tư hoặc" tức là mê muội rồi, không còn tỉnh táo, sáng suốt nữa. Do không sáng suốt, nên cứ nghĩ về những sự việc không rõ ràng, minh bạch. Cũng giống như tánh biến kế chấp vậy. Thí dụ, ban đêm quý vị trông thấy mẩu dây thừng, nhưng vì không nhận ra nên quý vị nghĩ rằng: "Ôi! Đó là con rắn!" đây gọi là tánh biến kế chấp. Tại sao quý vị lại tưởng sợi dây là con rắn? Bởi vì quý vị dựa vào hình thù của sợi dây mà nảy sanh tánh biến kế chấp. Sợi dây tức là tánh y tha khởi. Khi quý vị quan sát kỹ lưỡng và biết được rằng đó vốn là sợi dây được làm từ cây gai chứ không phải là con rắn, thì đây là tánh viên thành thực.
Cõi Dục giới có chín phẩm Tư hoặc. Bậc Nhị quả chỉ mới đoạn trừ được sáu phẩm tư hoặc đầu. Bậc Tam quả thì đã đoạn trừ xong ba phẩm tư hoặc còn lại. Đoạn trừ được sáu phẩm tư hoặc đầu của Dục giới thì đắc Nhị quả A la hán; nếu không đoạn trừ sáu phẩm tư hoặc này thì không chứng được Nhị quả.
Như vậy, bậc Tư đà hàm còn đến Dục giới thiên một lần và trở lại chốn nhân gian một lần nữa; do đó ngài được gọi là bậc Nhất lai. Sau một lần trở lại ấy, ngài chứng đắc quả vị A la hán, chấm dứt sanh tử.
"Thấp nữa là Tu đà hoàn." Bậc Tu đà hoàn là Thánh nhân chứng được Sơ quả, quả vị đầu tiên của hàng A la hán. "Tu đà hoàn" (Srotaapanna) là tiếng Phạn và có nghĩa là Nhập lưu (vào dòng), Dự lưu (tham dự vào dòng), hoặc Nghịch lưu (ngược dòng). "Nhập lưu" tức là "nhập Thánh nhân Pháp tánh lưu" gia nhập dòng Pháp tánh của Thánh nhân. "Nghịch lưu" nghĩa là "nghịch phàm phu Lục trần lưu" đi ngược lại dòng Lục trần của phàm phu. Lục trần là hình sắc, âm thanh, mùi hương, mùi vị, cảm xúc và pháp.
Chứng được Sơ quả tức là đã đoạn trừ được kiến hoặc. Chúng ta đều có kiến hoặc và tư hoặc đều bị mê hoặc bởi cái thấy (kiến) cũng như bởi ý nghĩ (tư). Chính hai thứ "hoặc" (u mê) này chi phối con người đến nỗi trở nên hồ đồ, mê muội. Vì thế, nếu muốn chân chánh khai ngộ thì phải đoạn trừ hai thứ "hoặc" này kiến hoặc phải được đoạn dứt và tư hoặc cũng phải được trừ khử! Thế nào gọi là "kiến hoặc"? "Kiến hoặc" có nghĩa là "đối cảnh khởi tham ái" hễ trông thấy sự vật thì sanh lòng ham muốn và yêu thích. "Tư hoặc" có nghĩa là "mê lý khởi phân biệt" bị mê mờ, không hiểu đạo lý, nên nảy sanh lòng phân biệt.
"Kiến" có nghĩa là nhìn thấy, trông thấy. Quý vị trông thấy sự vật và bị chúng mê hoặc, cám dỗ. Vì bị mê hoặc nên quý vị chạy theo cảnh giới, bị cảnh giới lay chuyển. Do bị giao động bởi cảnh giới nên quý vị sanh lòng tham lam và yêu thích. Có lòng tham tất sẽ có sự chấp trước, và có lòng yêu thích thì sẽ không thể buông bỏ. Vì chấp trước và không thể buông bỏ, nên quý vị không thể chứng được Thánh quả. Nếu quý vị muốn chứng được Thánh quả, thì cần phải đoạn trừ kiến hoặc! Có bao nhiêu phẩm kiến hoặc? Có tám mươi tám phẩm! Nếu đoạn dứt được tám mươi tám phẩm kiến hoặc này, thì sẽ chứng được quả vị đầu tiên của hàng A la hán và trở thành bậc Tu đà hoàn. Bậc Tu đà hoàn là Thánh nhân Sơ quả.
Thế nào gọi là "Dự lưu"? "Dự" tức là tham dự, tham gia, và cũng ngụ ý "đạt được." Do đó, "Dự lưu" có nghĩa là được tham dự dòng Thánh, được gia nhập hàng ngũ của các bậc Thánh nhân.
"Bậc Tu đà hoàn còn bảy lần sanh và bảy lần tử nữa mới chứng được quả A la hán." Bậc Thánh nhân đã chứng được Sơ quả còn phải trải qua bảy lần sanh ra và bảy lần chết đi bảy phiên sanh tử nữa. Sau khi đã trải qua bảy phiên sanh tử ấy, các ngài sẽ đắc Tứ quả A la hán và chấm dứt sanh tử.
Bảy phiên sanh tử được phân ra như sau:
Tại phẩm thượng thượng của Dục giới, bậc Tư đà hoàn nhậm vận đoạn trừ tham, sân, si, mạn; và ngài phải trải qua hai phiên sanh tử mới đoạn trừ xong.
Tại phẩm thượng trung của Dục giới, ngài trải qua một phiên sanh tử;
Tại phẩm thượng hạ của Dục giới, ngài trải qua một phiên sanh tử;
Tại phẩm trung thượng của Dục giới, ngài trải qua một phiên sanh tử;
Tại các phẩm trung trung và trung hạ của Dục giới, ngài trải qua một phiên sanh tử;
Tại các phẩm hạ thượng, hạ trung và hạ hạ của Dục giới, ngài trải qua một phiên sanh tử.
Như vậy tổng cộng là bảy phiên sanh tử. Sau khi trải qua bảy lần sanh ra và bảy lần chết đi như thế, bậc Tu đà hoàn mới có thể chứng đắc quả vị A la hán. Chứng được quả vị A la hán là chấm dứt Phần đoạn sanh tử.
Trình tự trên đây là dựa theo những lý lẽ rất tự nhiên mà liệt kê thôi. Gặp trường hợp cá biệt, như kẻ tu hành là những người đặc biệt, thì không nhất định. Những người có căn khí đặc biệt mà tu hành thì họ có thể từ Sơ quả trực tiếp chứng được Tứ quả A la hán. Trường hợp của thân mẫu ngài Cưu Ma La Thập là từ Sơ quả mà chứng đắc Tam quả A la hán. Cho nên, trình tự chứng quả vị không phải là cố định.
Tuy rằng kiến hoặc và tư hoặc trong Tam giới có nhiều phẩm, nhiều loại như thế, nhưng nói tóm lại thì cái làm cho con người điên đảo nhất chính là lòng ham mê ái dục! Aịi tình và dục vọng chi phối con người đến nỗi ai nấy đều thành ra điên đảo, mê muội biết rõ là sai mà vẫn muốn theo, còn biết chắc chắn là đúng thì lại phản kháng, chẳng chịu làm theo! Con người là những sinh vật hết sức kỳ quái biết rõ rằng đó là việc không tốt, mà cứ nhất định làm cho bằng được, mặc dù đã được khuyên can và chẳng bị sai khiến; còn biết rõ đó là việc tốt, thì lại khăng khăng không chịu làm mặc dù có người bảo làm. Nói chung là không bao giờ chịu nghe lời! Vì sao ư? Vì bị hai chữ "ái" và "dục" chi phối và làm cho điên điên đảo đảo!
"Đoạn trừ ái dục thì cũng như chặt đứt tứ chi, không còn dùng lại nữa." Nếu có thể dứt trừ lòng tham ái và lòng tham dục, thì nhất định sẽ thành tựu được Đạo quả! Đoạn trừ lòng tham ái và tham dục thì cũng giống như chặt đứt cả hai tay và hai chân vậy một khi tứ chi đã lìa khỏi cơ thể thì chẳng thể nào còn dùng lại được nữa. Lòng ham mê ái dục một khi đã dứt bỏ rồi thì cũng phải y hệt như tay chân đã bị chặt đứt vậy tuyệt đối không dùng lại nữa! Quý vị cần phải có một quyết tâm dứt khoát như thế; chớ nên chần chừ, tìm cách trì hoãn hoặc tránh né vấn đề; bằng không, thế nào quý vị cũng gặp phải sự rắc rối!
Nếu quý vị cứ phân vân muốn đoạn trừ ái dục rồi lại lưỡng lự, không muốn tiến hành; không muốn đoạn trừ ái dục rồi lại ngần ngừ, muốn đoạn trừ như thế gọi là "nhân nhu quả đoán, " nghĩa là nhu nhược, thiếu cương quyết, không có tánh quyết đoán. Người có tánh "nhân nhu quả đoán" là người không có trí huệ chân chánh; cho nên, đến lúc cần có sự dứt khoát thì họ lại do dự, không quyết định được! Có nhiều người đối với bất cứ chuyện gì cũng dùng dằng thụt tới thụt lui, hết nghĩ thế này lại nghĩ thế khác, hết muốn thế nọ lại muốn thế kia, không có một chút chủ ý hay tôn chỉ nào rõ rệt cả! Như thế thì rất là không tương ưng với việc tu Đạo, chẳng ích lợi gì cho sự tu hành cả!
Người tu Đạo cần phải có chí khí "đầu đội trời, chân đạp đất" và phải mang một quyết tâm như "chém đinh chặt sắt"; có như thế thì mới tu Đạo được!