Thích ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân.
Tức là họ của đấng hóa Phật[4] ở cõi Ta bà. Kinh Trường A hàm ghi: “Ngày xưa có vua Chuyển luân, [5] họ Cam giá nghe lời dèm pha của thứ phi[6] đuổi bốn thái tử đến phía bắc núi Tuyết.[7] Mỗi người tự xây thành ở đó, dùng đức phục người, chẳng mấy năm sau phát triển thành nước hùng mạnh. Bấy giờ, vua cha hối hận và nhớ các con nên sai sứ đến gọi về, nhưng họ đều từ chối không về. Vua cha ba lần than thở: ‘Thích ca con ta! Thích ca con ta! Thích ca con ta!’Nhân đó ban cho họ là Thích ca.”
Như Lai phiên âm tiếng Phạn là Đa đà a già độ. Vào đời ần dịch là Như Lai. Là một trong mười hiệu.[8] Như Lai là từ ‘Như thật đạo’ dẫn đến thành tựu ‘Chánh giác’.
Thành đạo là sự mở bày, vận hành của đấng Pháp vương.[9] Phàm đạo của Phật không đắc mới là đắc, chứ chẳng phải là đạo bình thường. Vả lại, Đức Phật Thích ca Như Lai thành đạo đến nay rất là lâu xa, chứ chẳng ngay trong đời này, nhưng vì lòng từ bi và nguyện lớn mà hóa hiện thân tướng tiếp độ, làm lợi ích cho chúng sinh; và cũng có đầu, cuối, nên gọi là Thành đạo.
Trong Đường thư [10]ghi: “Vương Bột là con thứ ba của Phước Thời. Dưới triều vua Đường Cao Tông, ông làm chức bác sĩ.[11] Ông với hai anh là Vương Cự và Vương Miễn đều có tài năng và tiếng tăm. Người thời bấy giờ gọi ba anh em ông là ‘Ba cây châu họ Vương.’” Khi Vương Bột còn trẻ, ông cùng với Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương đều nổi tiếng khắp nước, nên có hiệu là ‘Tứ kiệt’. Khoảng niên hiệu Càn phong (666 668), Bái Vương nghe tài danh của ông nên mời vào phủ. Khi ấy, các vua còn thích chơi đá gà, Vương Bột giễu cợt làm bài văn hịch ‘Anh vương kê’. Vua Cao Tông nổi giận nói: ‘Đây là cách cấu kết ngầm!’, nên đầy ông tới Quách Châu để tòng quân. Những tác phẩm được lưu hành ở đời của ông gồm có: Đằng vương các kí, Thích ca họa tượng kí, Duy ma họa tượng bi.”
1. Phật thùy tích
- Xem xét thùy tích[12] của Đức Thích ca Như Lai.
Hai chữ ‘quán phù’ chỉ là lời bắt đầu cho một sự việc, không có nghĩa.
Thích ca Như Lai: xem chú thích ở trên.
Thùy tích: Hựu pháp sư[13] nói: “Thầm nghe! Chỗ cùng tột của bồ đề là thần diệu mà lặng thông; viên trí mà ngầm chiếu. Đạo thì dứt hẳn vỏ hình thức; lí thì đoạn tuyệt cảnh sinh diệt. Vậy, há thật có đản sinh ở cung vua ư? Há thật có niết bàn nơi rừng vắng ư? Nhưng thương quần manh[14] chìm trong giấc ngủ dài, muốn cho tất cả cùng quay về đại giác, [15] nên mới có sự hóa hiện này. Khi cảm đạt đến cùng tột thì chắc chắn phải có ứng. Nếu ứng mà không sinh thì ai làm cho đời giác ngộ? Đã hóa hiện mà không có tên gọi, thì lấy gì chỉ dạy cho đời? Vì thế, mới đặt cho hiệu là Thích ca; luôn thuộc dòng dõi Sát đế lợi; biết mình là bậc tôn quí nhất trong vũ trụ; là bậc tuấn tú đứng đầu của người, trời. Nhưng sau, cởi giầy rời trữ cung, [16] thật quán nơi đạo thụ, [17] bỏ kim luân[18] để giữ đại thiên, [19] tỏ ngọc hào[20] để gom pháp giới. Chính những điều ấy mà Phật thùy tích.”[21]
- Pháp giới thân thanh tịnh vốn không ẩn hiện.
Căn cứ vào những ghi chép về thứ tự hóa tích, [22] thì trước tiên phải bàn về pháp thân. Pháp thân chính là bản thể của hóa thân, tức là pháp giới thanh tịnh. Nếu nói cụ thể thì có rất nhiều cách. Ở đây không trình bày đầy đủ. Đời ngài Tăng Triệu nói: “Như Lai lấy pháp giới làm thể, nên hình dáng có mặt khắp mọi nơi, dung lượng thì vượt ra ngoài thước tấc, đạo thì vượt khỏi vỏ bọc ngôn ngữ; an nhiên lặng lẽ, phi sắc phi tướng, không sinh không diệt, không đến không đi.” Cho nên nói vốn không sinh, không diệt.
- Sức nguyện đại bi thị hiện thụ sinh.
Câu này ý nói có sự ẩn hiện. Đại bi là một trong bốn tâm của Phật. Đây là cội gốc của Phật đạo, dùng tâm này để trừ khổ. Tâm này khi chứng quả Phật mới có, nên gọi là ‘đại’. Nguyện là đại nguyện. Lực là mười lực. Trong mười ba la mật này chỉ tạm nêu ra hai thứ. Vì chư Phật có đại bi nên không trụ ở niết bàn; có đại trí nên không trụ ở sinh tử; có đại nguyện nên càng nỗ lực cứu khổ. Từ ‘chân’ vào ‘giả’ phương tiện có thân, nên gọi là ‘thị hiện thụ sinh’.
- Đến trời Đâu suất đà.
Phiên âm tiếng Phạn là Đâu xuất đà, hoặc Đổ sử đa, Trung Quốc dịch là Tri Túc, tức là tầng trời thứ tư thuộc Dục giới v.v… . Kinh Niết bàn ghi: “Tầng trời này cao nhất thuộc Dục giới. Cho nên những Bồ tát bổ xứ đều sinh vào tầng trời này, vì mục đích giáo hóa chúng sinh.” - Là Bồ tát Hộ Minh.
Hộ Minh là nhân địa của Phật Thích ca. Vào thời quá khứ thuộc Hiền kiếp này, khi tuổi thọ của con người hai vạn năm, Hộ Minh gặp Đức Phật Ca diếp ba và được thụ kí tương lai sẽ thành Phật. Hộ Minh là tên cuối cùng của Bồ tát. Đến khi Bồ tát sinh lên trời Đâu suất cũng dùng tên này; giống như nay là ngài Từ Thị.
Bồ tát: nếu phiên âm đầy đủ theo tiếng Phạn thì phải đọc là Bồ đề tátđỏa. Trung Quốc dịch là Giác hữu tình. Đó là căn cứ theo công hạnh mà đặt tên. Nay gọi tắt là Bồ tát. - Giáng Ca tì la quốc
Phiên âm tiếng Phạn là Ca tì la tô đô. Trung Quốc dịch là Diệu Đức thành. Tức là vùng Trung Thiên Trúc.
- Hiệu là Nhất Thiết Nghĩa Thành.
Phiên âm tiếng Phạn là Tát bà phả tha tất đà. Trung Quốc dịch là Nhất Thiết Nghĩa Thành. Là tên của Phật Thích ca khi Ngài còn rất nhỏ. Hoặc có chỗ phiên âm giản lược và sai lầm thành Tất đạt.
Kinh Thụy ứng ghi: “Khi Bồ tát sinh ra ở trong cung vua, ngày ấy những người dòng họ Thích trong nước cũng sinh năm trăm bé trai. Bấy giờ, trong chuồng ngựa và voi, mỗi loài cũng sinh ra năm trăm con. Năm trăm loại phục tàng[23] ở trong cung bỗng nhiên hiện ở trong biển, năm trăm thương buôn nhặt các báu vật đem về và mỗi người dâng báu quí. Vua cha thấy việc hiện điềm ấy nên đặt thái tử tên này.”
Nhiếp Đại thừa luận ghi: “Việc đặt tên có năm nguyên nhân. Đó là vì chúng sinh, vì tướng, vì giả, vì xem thường, vì kính trọng. Việc đặt tên cho thái tử là vì tướng. Vì lúc thái tử chào đời xuất hiện nhiều điềm lành.
- Thiên tử Kim Đoàn chọn gia đình.
Kinh Bản hạnh ghi: “Hộ Minh nói với thiên nhân Kim Đoàn: ‘Thuở xưa Bồ tát Bổ xứ gá thai vào gia đình nào thì gia đình đó nhất định phải có đủ sáu mươi công đức và ba đời thanh tịnh. Nay ông hãy xuống cõi
Diêm phù xem xét giúp ta.’ Kim Đoàn thưa: ‘Ở thành Ca tì la có vua Tịnh Phạn và phu nhân Ma da, nhiều đời có đầy đủ công đức và thanh tịnh, rất có tiếng tăm, ngài có thể sinh vào gia đình đó.’ Hộ Minh nói: ‘Tốt lắm! Ta nhất định sinh vào gia đình ấy.’” - Vua Tịnh Phạn là cha của Ngài.
Phiên âm tiếng Phạn là Thủ đồ đà na. Trung Quốc dịch là Tịnh Phạn. Kinh Bản hạnh ghi: “Đó là người tài đức vẹn toàn.” - Voi ngọc cưỡi mặt trời.
Đức Thích ca Như Lai thị hiện thụ sinh ở cõi này từ đầu đến cuối có tất cả tám tướng: 1. Tướng ứng hiện từ cung trời Đâu suất; 2. Tướng giáng sinh ở vườn Lâm tì ni; [24] 3. Tướng đi dạo nơi bốn cửa thành; 4. Tướng vượt thành xuất gia; 5. Tướng thị hiện tu ở núi Tuyết; 6. Tướng ở bên gốc cây bồ đề hàng phục ma thành đạo; 7. Tướng chuyển pháp luân ở vườn Lộc dã;[25] 8. Tướng nhập niết bàn dưới rừng sa la. ‘Voi ngọc cưỡi mặt trời’ là tướng thứ nhất. Kinh Phổ diệu ghi: “Bồ tát cưỡi con voi trắng vào thai. Vì sao? Vì ba con thú[26] lội qua sông chỉ có con voi là chạm đáy.”
- Thị hiện vào trong thai Đại Thuật.
Phiên âm tiếng Phạn là Ma ha Ma da, Trung Quốc dịch là Đại Thuật. Đại Thuật là mẹ của Phật. Đại Thuật là người con gái thứ tám của trưởng giả Thiện Giác ở trong thành Thiên Tí. Tướng sư đoán: “Người con gái này về sau sẽ sinh Chuyển luân thánh vương.” Thuở ấy, vua Tịnh Phạn biết được việc ấy nên cưới làm phi. Kinh Bản hạnh ghi: “Ma da phu nhân nằm mộng thấy bạch tượng cưỡi mặt trời đi vào bên hông phải của bà. Sáng ngày bà tâu hết sự tình với vua. Vua cho gọi thầy tướng đến hỏi điềm ấy. Thầy tướng nói: ‘Người nữ nào mà nằm mộng như vậy thì nhất định sẽ sinh Chuyển luân thánh vương.’” Hãy thử bàn về điềm này!
Kinh không nói ư? Bồ tát trong chín mươi mốt kiếp không rơi vào đường ác. Tại sao cuối cùng sinh ra thân trung hữu làm bạch tượng? Luận Bà sa ghi: “Điều này không phải là việc có thật. Vì ở nước kia tôn trọng mặt trời, yêu quí voi. Vì vậy, hễ ai mộng thấy như thế tức là điềm lành lớn. Nhưng vì muốn cho thầy tướng nói như vậy, nên mới thiện hiện ra tướng ấy.”
Hỏi: Lần sinh cuối cùng Bồ tát có thụ thai thật không?
Đáp: Kinh Pháp hoa ghi: “Vì muốn độ những chúng sinh có tâm lượng nhỏ bé, hiểu biết hạn hẹp và không muốn để chúng nghĩ Phật là tự nhiên hóa sinh, công đức, trí tuệ không phải do tu tập mà được; vì thế, mới thị hiện thụ thai.”
Kinh lại ghi: “Bồ tát ở trong thai mẹ, lầu báu, điện ngọc giống như ở cung trời; đi, đứng, ngồi, nằm không làm mẹ khổ sở; mỗi ngày ba thời chư Phật ở mười phương vào thai an ủi và nói pháp môn Thụ sinh; Bồtất đồng hành[27] ở mười phương và các thiên nhân[28] đều vào trong thai thăm hỏi và nghe pháp.” Vì thế, lấy những việc này để chứng minh là chẳng phải việc thật.
- Kim Luân làm vua.
Luân vương có bốn: 1. Thiết Luân vương trị vì một thiên hạ. 2. Đồng Luân vương trị vì hai thiên hạ. 3. Ngân Luân vương trị vì ba thiên hạ. 4. Kim Luân vương thống trị bốn thiên hạ. Có bảy thứ báu và một nghìn người con. Bảy thứ báu là: 1. kim luân; 2. ngọc nữ; 3. ngựa; 4. voi; 5. thần linh giữ gìn bảo tạng; 6. quần thần quản lí quân đội; 7. bảo châu như ý. Ngày thánh vương nhận ngôi vị, bảy thứ báu này đều từ không trung rơi xuống. Do đó, khi Kim Luân bay lên dạo đi khắp bốn phương trong hư không thì tất cả cõi nước thấy Kim Luân bay đến đều tự nhiên thần phục.[29] Kinh Bản hạnh ghi: “Sau khi thái tử chào đời, có thầy tướng giỏi nói: ‘Thái tử có đủ ba mươi hai tướng hiện rõ ràng, nên chắc chắn sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương.’”
- Sinh ra dưới cây Vô Ưu.
2. Giáng sinh ở vườn Lâm tì ni
Kinh Thụy ứng ghi: “Ma da phu nhân mang thai sắp mãn muốn đi dạo trong vườn này. Đến nơi, bà đưa tay phải vịn càn cây Vô ưu thì từ hông phải sinh ra thái tử. Bấy giờ, Thiên Đế dùng vải tốt ở cõi trời quấn tay đỡ thái tử. Thiên nhân cầm lọng vàng che thái tử. Các trời, rồng, thần rải hoa, hương, đánh trống, trổi nhạc; đại địa khắp mười phương có sáu thứ chấn động; có ba mươi hai điềm lành ứng hiện.” Còn nhiều việc khác nữa, vì văn nhiều nên không chép ra đây.
Theo Cổ kim luận hàng chu thư dị kí ghi: “Ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp dần, đời Cơ Chu Chiêu Vương[30] năm thứ 24, sông ngòi, suối, giếng nước tràn ngập núi sông, cung điện chấn động, sao đêm không mọc, có ánh sáng năm màu xuyên qua cung Thái vi, vua hỏi quần thần: “Đây là điềm gì?” Thái sử Tô Do tâu: “Ở Tây Phương có bậc thánh nhân ra đời.” Từ đó đến một nghìn năm sau, giáo pháp mới truyền đến Trung
Quốc. Vua ra lệnh cho đục đá khắc lại những sự việc đó và chôn ở Nam giao.[31]
- Tám mươi thứ tùy hình diệu hảo, món ăn như Phân hoa. Luận Bà sa ghi: “Tám mươi vẻ đẹp ẩn ở trong các tướng, tùy theo các tướng biến chuyển mà tô điểm cho thân của Phật.”
Phân hoa tiếng Phạn phiên âm đầy đủ là Phân đà lợi hoa. Trung Quốc là Hoa sen trắng. Kinh Niết bàn ghi: “Thân của Như Lai không bị bào thai làm nhơ uế, giống như hoa Phân đà lợi. Vì thân Như Lai bản tính vốn thanh tịnh.”
- Ba mươi hai nghi tướng của đại sĩ sáng như trăng tròn sáng.
Kinh Niết bàn ghi: “Đức Phật thị hiện ba mươi hai tướng để tự trang nghiêm, giống như trăng rằm.” - Bước đi bảy bước về bốn hướng.
Kinh Thụy ứng ghi: “Khi Bồ tát vừa mới sinh, không có ai dìu đỡ, mà tự bước đi về bốn hướng, mỗi hướng bước bảy bước, tự nhiên có hoa sen đỡ chân.” Kinh Hoa nghiêm ghi: “Xuất hiện ở thế gian hoàn toàn không có ai sánh bằng.” Kim cang tiên kí ghi: “Như Lai thị hiện việc đi có hiện tượng: 1. Vận thần thông đi trong không trung; 2. Tự nhiên có hoa sen đỡ chân; 3. Khi đi, chân cách đất bằng bốn ngón tay nhưng hình bánh xe nghìn căm in trên đất rất rõ ràng.”
- Chín dòng cùng tuôn nước tắm thái tử.
Kinh Phổ diệu ghi: “Bồ tát vừa chào đời, trong không trung xuất hiện chín con rồng phun hơi nước không lạnh, không nóng tắm Bồ tát.”
- Hoa Ưu đàm xuất hiện.
Khi nào Kim luân vương ra đời thì hoa Ưu đàm bát la này mới xuất hiện. Cho nên, người đời thường gọi là hoa Nan Kiến (Khó thấy). Vì thế, dùng hoa này để thí dụ Phật ra đời khó gặp cũng giống như thế. Kinh Bản hạnh tập ghi: “Tiên nhân A tư đà tâu với vua: ‘Giống như hoa Ưuđàm bát la, vô lượng vô biên ức trăm nghìn năm mới xuất hiện một lần, Phật cũng như thế.” Kinh A hàm ghi: “Nên quán sát Như Lai xuất hiện ở đời giống như hoa Ưu đàm bát la.” Kinh Niết bàn ghi: “Phật giống như hoa Ưu đàm gặp thời mới sinh.” - Vang ra tiếng sư tử hống.
Kinh Nhân quả ghi: “Thái tử vừa chào đời, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, vang ra tiếng sư tử hống: [32] ‘Trên trời dưới trời chỉ Ta cao quí nhất.’” Sư tử là chúa tể của trăm thú ở thế gian. Mỗi khi sư tử rống có bốn việc: 1. Trăm thú nghe tiếng rống thì vỡ não; 2. Hương tượng[33] hàng phục; 3. Chim đang bay bị rơi xuống; 4. Các loài ở nước đều lặn. Ở đây dụ cho âm thanh của Phật bao hàm ý nghĩa vô úy;[34] cũng có bốn việc: 1. Âm thanh nói pháp của Phật làm cho trăm pháp đều bị phá; 2. Thiên ma đều hàng phục; 3. Ngoại đạo, tà kiến đều tan rã; 4. Tất cả phiền não đều ngừng dứt. Pháp và dụ bình đẳng, việc ấy như thế.
- Nói thai phần đã chấm dứt, sớm chứng thường thân
Thường thân: tức pháp thân[35] tịnh pháp giới.[36] Kinh Pháp hoa ghi:
“Từ khi Như Lai thành Phật đến nay đã rất là lâu xa.” Nếu như vậy thì thai phần đã dứt, không thụ thân sau, sao nay lại còn sinh?
- Vì hóa độ chúng sinh, nay sinh trở lại, nên phải hiện hóa tích[37]
Tâm của các Đức Phật từ bi rộng lớn, vì chúng sinh giới vô tận, nên lòng đại bi cũng vô tận. Vì độ chúng sinh nên mới hiện ở đời.
Hỏi: Phật thành đạo đã rất lâu xa, đầy đủ đại tự tại, [38] tại sao không trức tiếp hóa sinh[39] thành Phật? Cần gì phải vào thai và sinh bên hông phải?
Đáp: Kinh Đại thiện quyền ghi: “Bồ tát muốn không sinh do bào thai, trong khoảng khắc liền thành Phật, nhưng vì sợ những chúng sinh có tâm lượng hẹp hòi, hiểu biết nông cạn kia nghi là biến hóa rồi không chịu nghe lời chỉ dạy. Còn nếu sinh vào gia đình nghèo khổ và đi xuất gia dễ dàng, thì người đời cho rằng vì tránh sự đói lạnh mà xuất gia. Vì thế, nên thị hiện vào thai, sinh ra bên hông phải, sinh vào nhà đế vương, những việc khác đều giống như người bình thường ở đời, sau đó mới đi xuất gia.”
- Vì lí do đó, trở lại buộc mình thị hiện giống như đứa trẻ.
Kinh Niết bàn ghi: “Thân của Như Lai chính là pháp thân, chẳng phải thân đó do máu, thịt, gân, xương tạo thành, nhưng vì tùy thuận pháp thế gian của chúng sinh nên thị hiện làm ‘anh nhi’.” Thích danh[40] ghi:
“Trước ‘hung’ gọi là anh. Tức là phải bồng lên. Trước ‘anh’ phải dùng sữa để nuôi dưỡng. Cho nên gọi là ‘anh nhi’.
- Tiên A tư đà xem tướng xong vô cùng buồn bã.
A tư đà là phiên âm của tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Vô Tỉ. Là một vị tiên nhân trường thọ ở Tây Vực, [41] là một người có tài xem tướng. Kinh Bản hạnh ghi: “Vua Tịnh Phạn mới tiên nhân A tư đà đến xem tướng thái tử. Xem xong, tiên nhân tỏ vẻ bùi ngùi, nức nở. Vua hỏi: Vì sao tiên nhân khóc?
Tiên nhân đáp: Thái tử có đủ ba mươi hai tướng, tám mươi chủng hảo hiển hiện rõ ràng, sau này nếu không làm bậc Chuyển luân thánh vương thì cũng xuất gia thành Phật, chuyển đại pháp luân, làm cho tất cả chúng sinh đều được an lạc, nay tôi tủi thân vì thấy minh tuổi đã lớn không gặp được pháp hóa, [42] mất lợi ích lớn, nên mới buồn rầu như vậy.
- Đến cúng nhà thờ họ, hoảng hốt trước miếu thờ Đại Tự Tại.
Kinh Thụy ứng ghi: “Vua Tịnh Phạn chuẩn bị xe ngựa rồi bồng thái tử lên xe đến miếu thờ thiên thần Đại Tự Tại để lễ bái. Thái tử vừa đến thì các tượng thiên thần đều đỉnh lễ dưới chân thái tử. Thấy vậy vua Tịnh Phạn ngạc nhiên và thốt lên: ‘Ôi! Con ta là bậc tôn thắng trong thiên thần, ta nên đặt tên con là Thiên Trung Thiên’”. Đây chính là tên thứ hai của Phật khi Ngài còn bé.
- Hoặc gọi làm Đồng tử.
Kinh Hoa nghiêm ghi: “Hiện tại chỉ là một đứa trẻ, nhưng vì muốn thị hiện làm người thông suốt, thành đạt tất cả sự nghiệp ở thế gian.” - Hoặc học Thanh văn.
Đại luận[43] ở Thiên Trúc có năm minh: 1. Thanh minh; 2. Công xảo minh, ; 3. Y phương minh; 4. Nhân minh; 5. Nội minh. Trong đó, thanh minh chính là bàn luận, giải thích những lời dạy xưa. Ở Thiên Trúc người nào thông minh mới được chỉ dạy phương pháp này. Thái tử học hết năm minh, nhưng ở đây chỉ nêu một minh và phải biết bốn minh còn lại cũng như vậy.
- Vì thi đấu võ, tiễn tháp, tiễn tỉnh[44] vẫn còn.
Thầy dạy võ cho thái tử là Sạn đề đề bà, Trung Quốc dịch là Nhẫn Thiên. Kinh Bản hạnh ghi: “Năm thái tử 15 tuổi, ngài cùng với những người họ Thích thi bắn cung. Thái tử bắn lần đầu mũi tên xuyên thủng bảy cái trống bằng vàng; bắn lần nữa, mũi tên xuyên qua một con lợn sắt, rồi mũi rơi xuống cắm sâu vào lòng đất và một dòng nước tuôn trào dữ dội. Lúc ấy, trời Đế thích liền nhặt mũi tên ấy đem về trời Đao lợi xây tháp giữ kĩ và cúng dường. Đây là một trong bốn tháp đầu tiên ở cõi trời.”
Chỗ dòng nước tuôn trào ấy, mọi người gọi là tiễn tỉnh. Đường Tam tạng tây vực kí ghi: “Tiễn tỉnh cách phía đông nam thành Ca tì la ba mươi dặm. Nước trong giếng ấy có vị ngọt như rượu ngọt. Người bệnh uống vào thì lành bệnh. Đến nay người dân vẫn còn được lợi ích từ giếng nước đó.”
- Vì đọ sức mạnh nên tượng tích, tượng khanh vẫn còn.
Kinh ghi: “Thái tử cùng với người em là Nan đà và Điều Đạt ra vườn để đọ sức. Điều Đạt đi trước thấy một con voi lớn đang đứng trước cửa thành, liền đưa tay đánh chết con voi. Nan đà ra sau thấy con voi nằm chắn ngang đường liền kéo bỏ qua một bên. Thái tử ra sau cùng thấy con voi nằm bên đường liền dùng tay trái nhấc lên, tay phải tì vào rồi ném mạnh. Con voi bay ra ngoài thành. Chỗ con voi rơi xuống đất bị lún sâu, nên gọi là Tượng khanh.” - Mười năm hưởng thụ dục lạc.
Năm thứ trần sắc, thanh, hương, vị, xúc này chúng sinh ở cõi Dục đều tham đắm, cho là vui, nên gọi là Dục lạc. Kinh Bản hạnh ghi: “Thái tử ở trong cung hưởng thụ đủ năm dục, vui chơi tự tại, mười năm trôi qua chưa chừng ra ngoài, nên gọi là Thụ lạc thập tế.”
3. Dạo bốn cửa thành
Tướng thứ ba này là đi dạo bốn cửa thành. Đây là nguyên nhân thúc giục ngài đi xuất gia.
- Thích hình dáng sa môn, chán thân già, bệnh, chết.
Sa môn là từ gọi chung cho tất cả chúng đệ tử xuất gia. Kinh Bản hạnh ghi: “Thái tử ở trong cung lâu ngày nên rất muốn ra ngoài đi dạo. Bấy giờ, vua ra lệnh phải quét dọn đường xá sạch sẽ, trang hoàng vườn, nhà đẹp đẽ và chọn một cận thần tài trí làm người hầu để giải đáp mọi thắc mắc cho thái tử.
Đầu tiên thái tử đi ra cửa phía đông, trời Tịnh Cư hóa làm một ông lão ốm yếu chống gậy.
Thái tử thấy vậy liền hỏi thị thần: [45]Đây là người gì?
Thị thần đáp: Đây là người già?
Thái tử hỏi: Người già là sao?
Thị thần đáp: Trước đó người này là một người trẻ khỏe, vì lạnh nóng đổi thay, máu và hơi thở yếu dần nên thành ra như vậy. Người sinh ra trên thế gian này rồi ai cũng già.
Thái tử lại đi ra cửa phía nam, trời Tịnh Cư hóa làm một người bệnh. Thái tử hỏi: Đây là người gì?
Thị thần đáp: Đây là người bệnh? Thái tử hỏi: Người bệnh là sao?
Thị thần đáp: Do con người ham muốn không chừng mực, ăn uống quá độ, bốn đại không điều hòa, sinh ra các bệnh, các sự đau đớn bức bách, không biết sống chết lúc nào. Người ở thế gian không ai khỏi bệnh.
Thái tử đi ra cửa phía tây, trời Tịnh Cư hóa làm một người chết. Thái tử hỏi: Đây là người gì?
Thị thần đáp: Đây là người chết?
Thái tử hỏi: Người chết là sao?
Thị thần đáp: Vì sự sống giảm dần, tinh thần sa sút, bốn đại đều tan rã, sáu căn không còn khả năng nhận biết, cha mẹ, vợ con tình cảm sâu nặng nhưng không ai có thể giữ lại được. Người đời bất kể là kẻ giàu, người nghèo, kẻ hiền, người ngu, ai rồi đều cũng phải chết.
Do đó, tâm tư thái tử không vui, nên cho đánh xe quay về cung. Có người hỏi: Trong Kinh ghi: “Vua đã ra lệnh quét dọn sạch sẽ đường xá, ngói, sỏi, cỏ cây còn không có, tại sao lại có người già, bệnh, chết dám xuất hiện trước pháp giá?”[46]
Đáp: Kinh Bản hạnh ghi: “Trời Tịnh Cư giấu thân phận mà hóa hiện ra và chỉ có thái tử, thị thần mới thấy được. Cho đến vị thị thần ứng đáp đều do sức trời sai khiến ông ta như thế.”
Hỏi: Trời ở đây là ai mà cố ý hóa hiện ra những việc như vậy?
Đáp: Họ đời trước đều Bồ tát đồng hành thiện hữu tri thức, vì một lòng thệ bảo vệ, nên luôn luôn theo hai bên biến hiện ra các tướng, làm cho thái tử sinh nhàm chán với cảnh dục lạc và không quên chí nguyện xuất gia.
Thái tử lại đi ra cửa thành phía tây, trời Tịnh Cư hóa làm một sa môn, chống gậy, ôm bát, bước đi chậm chạp trước xe. Thái tử hỏi: Ông là người gì?
Người kia đáp: Tôi là sa môn đệ tử Phật. Thái tử hỏi: Vì sao gọi là sa môn?
Người kia đáp:
Ba cõi thường hỗn loạn
Sáu đường luôn mịt mờ Biết tâm được bản nguyên[47] Nên gọi là sa môn.
Nói dứt lời, người kia bay lên hư không biến mất. Thái tử nhìn theo và vui vẻ nói: “Chỉ có đây mới là vui sướng! Quyết phải tu học.” Rồi thái tử trở về cung.
- Nhân đó, thiên tử Tháo Bình, vì khuyên nhắc mà làm cho các kĩ nữ lộ thân thể xấu xí.
Vì đã chứng kiến qua những việc khi đi dạo bốn cửa thành, nên lòng thái tử nặng trĩu suốt nhiều ngày. Thấy vậy, vua cha ra lệnh thêm kĩ nhạc để làm cho thái tử vui. Mỗi đêm vào nửa đêm, có Tháo Bình ở trời Tịnh Cư đến trụ ở không trung khuyên nhắc. Lại làm cho các nhạc cụ đều phát ra những âm thanh năm dục chẳng phải vui, thế gian là vô thường, niết bàn tịch tĩnh, phải mau xa lìa. Cho đến, làm cho các kĩ nữ ngủ say, y phục hở hang, chất nhơ uế chảy tràn. Thái tử nhìn thấy qua càng nhàm chán, xa lìa.
Như Lai ở trong pháp giới, tâm đại bi hiện ra các hình ảnh ấy, há thật thích dục lạc và đợi ở trong không trung có tiếng khuyên nhắc mới sinh nhàm chán, xa lìa sao? Nếu thật như vậy thì có khác gì phàm phu? Bởi vì, Đức Phật muốn giáo hóa thế gian nên mới thị hiện nghiệp giống với thế gian. Kinh Đại phương đẳng vô tướng ghi: “Nếu nói Như Lai thật sinh ra ở cung vua, cho đến có tám tướng thành đạo, như thế là hủy báng
Như Lai.”
- Trời Tịnh Cư và ngời nâng gót Ngài, Xa nặc chuẩn bị xe.
4. Vượt thành xuất gia
Đến đây, căn cứ theo lập luận của các tông phái thuộc Đại thừa thì thái tử vượt thành xuất gia vào năm 29 tuổi.
Xa nặc là người đánh xe cho thái tử. Kinh Bản hạnh ghi: “Thái tử nhiều lần đem tâm nguyện muốn xuất gia thưa với vua cha.
Vua cha nói: Con sẽ làm Chuyển luân thánh vương, có bảy báu, nghìn người con, thống nhất bốn thiên hạ, tại sao lại chọn con đường cắt tóc, mặc nhiễm y[48] làm vui?
Thái tử thưa: Con chỉ mong thành Chính giác, thống thống lãnh đại thiên, nhiếp hóa chúng sinh, giúp chúng ra khỏi đêm dài tăm tối, sao lại chọn bảy báu, bốn thiên hạ làm vui?
Nghe thái tử nói vậy, vua chỉ còn biết cho thêm người canh giữ, bày nhiều môn kĩ nhạc để ngày đêm mê hoặc thái tử.
Vào một đêm, trời Tịnh Cư đến trụ trong hư không nói với thái tử: “Đi mau! Đến giờ rồi!” Thái tử liền gọi Xa nặc dắt con ngựa Kiền trắc của vua đến, rồi thái tử nhảy lên ngựa, có bốn dạ xoa bám theo chân ngựa, thiên nhân cầm lọng, Phạm vương ở bên trái, Đế thích hầu bên phải, Thiên vương theo sau bảo vệ, khiến cho các cửa thành của quốc quan[49] tự nhiên mở, những người giữ cửa đều không hay biết. Thái tử nương hư không đi thẳng đến rừng Khổ hạnh, núi Tuyết. Đến khi trời sáng thái tử đã đi được tám trăm dặm.
Kinh Hoa nghiêm ghi: “Thân sau cùng của Bồ tát, pháp nhĩ như thị. Vì muốn làm cho chúng sinh đắm trước xả bỏ gia pháp, [50] thị hiện sự tự tại nên không phụ thuộc vào cái gì khác. Vì tuyên dương công đức xuất gia, nên thị hiện xuất gia.”
- Mùa Xuân, đêm mùng tám, nửa đêm, vượt thành xuất gia.
Vào lúc nửa đêm, ngày mùng 08 tháng 02 thái tử vượt thành xuất gia. Theo Luận hành ghi: “Chu Chiêu Vương năm thứ 42, nhằm năm Nhâm Thân.”
- Sáu năm ở núi Tuyết.
Nói sáu năm là lấy tròn số năm mà thái tử tu khổ hạnh tại núi Tuyết. - Lời của người làm lòng vua buồn rầu, quyến luyến.
Người là chỉ cho Xa nặc. Kinh Bản hạnh ghi: “Khi đến núi, thái tử nói với Xa nặc: ‘Việc khó làm, ngươi và Kiền trắc đã làm xong, giờ nên trở về nước’”. Xa nặc gào khóc, ngất xỉu một hồi lâu mới nói với thái tử: “Cớ sao bảo tôi một mình trở về cung!”
- Ngựa lè lưỡi, nước mắt chảy dài.
Ngựa Kiền trắc của vua nghe thái tử nói, quỵ xuống, liếm chân thái tử, nước mắt chảy dài không dứt.
- Vung gươm báu cắt tóc xanh, xây tháp thờ ở cung trời.
Kinh Bản hạnh ghi: “Thái tử rút gươm báu đang đeo bên mình, tay trái nắm lấy tóc xanh và phát nguyện: ‘Nay ta cắt tóc này thệ giúp cho chúng sinh đoạn trừ phiền não và tập chướng.’ Phát thệ dứt lời, thái tử liền cắt tóc và ném lên không trung. Lúc ấy, trời Đế thích đón lấy tóc đem về trời Đao lợi xây tháp phụng thờ và cúng dường. Đây là tháp thứ hai trong bốn tháp ở cõi trời.”
- Đem long bào đổi lấy áo da, hình dáng giống người săn nai.
Kinh Bản hạnh ghi: “Thái tử chợt nhận ra y phục mình đang mặc không phải y phục của người xuất gia. Bấy giờ, trời Tịnh Cư hóa làm người thợ săn mặc y ca sa. Thái tử thấy vậy, liền cởi y báu đổi lấy, mặc vào và vui vẻ nói: ‘Nay ta mới thật là người xuất gia.’”
Kinh ghi: “Trời hóa làm thợ săn mặc y ca sa.” Ca sa là phiên âm tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là hoại sắc. Vì nó chẳng thuộc năm màu chính.[51] Loại y này chỉ có người xuất gia trong Phật pháp mới mặc.
Nhưng ở Tây Vực bọn thợ săn phần nhiều trộm y này mặc để đi vào núi. Trong núi có nhiều sư tử; sư tử thấy màu y này cho đó là sa môn nên không hại bọn thợ săn. Vị trời kia vì muốn thái tử tìm hiểu về loại y này nên khen ngợi công đức của y.
Kinh ghi: “Thái tử đổi lấy y làm bằng da nai. Thấy vậy, Xa nặc hỏi thái tử: ‘Sao bỏ áo báu này, thái tử định ở chung với hươu, nai ư?” - Chê sở đắc của lâm tiên chỉ thế gian định chứ chẳng phải là định chân thật.
5. Tu đạo ở núi Tuyết
Lâm tiên là chỉ cho những ngoại đạo ở trong rừng khổ hạnh. Sở đắc là định mà những ngoại đạo tu tập. Nghĩa là tâm mong cầu sai lệch, như ưa thích cõi trên, nhàm chán cõi dưới mà nỗ lực tu tập; tuy được sinh lên trời, nhưng đó chỉ là quả vị hữu vi, hữu lậu ở thế gian. Vì thế, nên gọi là thế định. Giả sử tu tập đạt được phi tưởng, phi phi tưởng định, thọ tám vạn kiếp, khi số kiếp hết vẫn rơi xuống cõi Dục giống như trước, sinh vào ba đường ác để đền trả nghiệp đời trước. Kinh Kim cang có bài tụng:
Dù qua tám vạn kiếp
Cuối rồi trở về không.
Tức là chỉ cho thế định vậy.
Kinh Bản hạnh ghi: “Thái tử đến núi Tuyết, vào rừng khổ hạnh hỏi các tiên nhân: Các người khổ nhọc tu hành vì cầu quả vị gì? Các tiên nhân đáp: Cầu sinh lên các cõi trời. Thái tử nghe họ nói vậy không vui, nên bỏ đi tiếp. Thái tử đến chỗ của hai vị tiên nhân A lam ca lan và Uất đầulam phất hỏi về định Tứ không xứ.[52] Nghe hai vị tiên nhân trình bày về những loại định này xong, thái tử suy nghiệm một hồi lâu và cho rằng: ‘Đây không phải là pháp giải thoát rốt ráo.’ Rồi thái tử lại từ giả họ ra đi.
- Ăn lúa mì, ăn mè, hàng phục khổ, vui.
Kinh Bản hạnh ghi: “Thái tử đến núi Già da, bên sông Ni liên suy nghĩ, quán sát: ‘Căn duyên của tất cả chúng sinh, sáu năm sau mới có thể độ được họ.’ Rồi thái tử bắt đầu tu khổ hạnh, ngày chỉ ăn một hạt mè và một hạt lúa mì; lấy đó để kiểm chứng mình. Đó gọi là hàng phục vui.
Sau đó, thái tử nhận ra đây không phải cách tu đúng đắn, nên ăn uống lại bình thường, tắm gội và lấy hương xoa thân. Đó gọi là hàng phục khổ.” - Đàn ngọc tấu khúc, ắt tự trong đó khúc thành.
Ở đây giải thích ý nghĩa hàng phục khổ, vui thành công. Như khi Phật còn tại thế, có Ức Nhĩ con của một vị trưởng giả rất giàu có, theo Phật xuất gia; vì cầu đạo nên ngày đêm siêng năng tu tập khổ hạnh, đến nỗi chân lở loét, máu tuôn ra một thời gian dài mà không chứng ngộ được gì. Lúc ấy, Ức Nhĩ vô cùng chán nản sắp bỏ đạo.
Phật biết được và hỏi: Khi ông còn ở nhà có hay đánh đàn không?
Ức Nhĩ thưa: Dạ có.
Phật hỏi: Dây đàn căng quá, lơi quá thì thế nào?
Ức Nhĩ thưa: Âm thanh không thành khúc. Phật hỏi: Dây đàn vừa thì thế nào?
Ức Nhĩ thưa: Âm vận mới thành.
Đức Phật dạy: “Người xuất gia cầu đạo trong pháp của Ta cũng như thế, nếu gấp quá thì sinh mỏi mệt, nếu chậm quá thì sinh lười biếng, giữ trung bình thì đạo ấy mới thành.”
Ức Nhĩ y theo lời Phật dạy thực hành, chưa đầy một tháng sau chứng được quả A la hán.
- Nhân đạt được quả Phật viên mãn cũng nhờ vào ‘trung’ mà thành. Câu này giống với thí dụ vừa nêu ở trên.
Phật đà là phiên âm tiếng Phạn. Trung Quốc dịch là Giác. Giác gồm có ba: tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Ở đây gọi tắt là Phật.
Quả tức là đại niết bàn hai không.[53] Nhân tức là lục độ vạn hạnh. Nghĩa là nếu muốn cầu quả vị Phật tròn đủ, thì chẳng phải quá gấp, chẳng phải chậm quá mà có thể thành; chỉ cần giữ bình thường mới thành.
- Do đó, chọn chỗ ấy hơn là ở cung rồng.
Chỗ ấy chính là bồ đề đạo tràng. Bồ đề đạo tràng ở cõi Diêm phù đề, là nơi các Đức Phật trong ba đời đều đến chỗ ấy để thành Phật. Vì thế, cần phải chọn lựa.
Kinh Bản hạnh ghi: “Bồ tát đến bồ đề đạo tràng, trên đường đi gặp long vương Ca trà. Long vương ấy sống rất thọ, từng thấy tướng lành thành đạo của ba Đức Phật đời xưa. Vì thế, long vương cùng với bà con thân thuộc đều đem hương hoa, âm nhạc, phướn lọng đón rước Bồ tát và cúng dường.”
Lại nữa, Bồ tát đi đến chỗ của con rồng mù tên Văn Lân, ngồi bên bờ sông, phóng quang chiếu xuống sông, mắt của con rồng từ từ sáng, rồi nó cũng đem đủ các loại hương hoa, âm nhạc, lên bờ đón rước và cúng dường. Rồng có bảy đầu, nó lấy thân quấn quanh Phật ba vòng và ngẩng đầu cao che đỉnh Bồ tát.
- Muốn tắm, nên xuống sông Ni liên.
Kinh ghi: “Khi Bồ tát xuống sông Ni liên tắm, có chư thiên đem các loại hoa hương rải xuống sông. Bồ tát tắm xong có thần cây đặt một cành cây xuống sông và đưa tay kéo Bồ tát lên bờ.” - Thị hiện việc ăn uống, nhận cháo sữa của Nan đà.
Kinh Niết bàn ghi: “Như Lai ở trong vô lượng a tăng kì kiếp đã không còn ăn uống, nhưng vì để chỉ dạy hàng Thanh văn nên trước nhận bát cháo sữa của hai người nữ chăn bò.”
Kinh Bản hạnh ghi: “Khi Bồ tát sắp đến đạo tràng, có vị trời bảo hai tiên nữ của Thiện Sinh Lâm Chủ; một người tên Nan đà, Trung Quốc dịch là Hỉ; một người tên là Bà là, Trung Quốc dịch là Lực: ‘Hai người là người đầu tiên cúng dường.’ Lúc ấy, hai tiên nữ nấu cháo sữa, trên nồi cháo hiện các tướng lành, rồi dùng bát đựng đầy cháo đem đến dâng cúng Bồtát. Bồ tát ăn cháo xong, ném cái bát xuống sông Ni liên. Trời Đế thích nhặt lấy bát đem về trời xây tháp, phụng thờ, cúng dường. Đây là ngôi tháp thứ ba ở cõi trời.”
- Thị hiện ngồi trên tòa, nên nhận cỏ cát tường.
Cách thức ngồi ở Thiên Trúc phải lấy cỏ trải làm chiếu. Bấy giờ, trời Đếthích hóa làm người cắt cỏ.
Bồ tát hỏi: Cỏ này gọi là gì?
Người kia đáp: Gọi là cỏ Cát tường.
Bồ tát liền nhận cỏ. Cỏ màu xanh đậm, mền mại, bóng loáng giống như lông cổ của khổng tước.
- Vì thân thể thù thắng cuối cùng.
Bồ tát bổ xứ chỉ một thân này, không thụ thân sau, cho nên gọi là thân thể thù thắng cuối cùng. - Đến bồ đề đạo tràng.
Phiên âm tiếng Phạn là bồ đề, Trung Quốc dịch là đạo. Vì Phật thành đạo ở đó nên gọi là đạo tràng. Tây Vực kí ghi: “Cách phía tây nam sông Ni liên mười dặm, nước Ma kiệt có một cây gọi là cây bồ đề.”
Kinh Bản hạnh ghi: “Trước khi Bồ tát đến chỗ ấy, chư thiên cõi Sắc đã dùng phướn, lọng bằng lụa che và quấn ngọn cây để làm tiêu xí.”[54] - Nhân sâu của giải thoát viên mãn.
Giải thoát tức chướng hoặc đều tiêu trừ, tùy ý không ngăn ngại, dây trần không thể bó buộc, các thú vui ở thế gian không thể lôi cuốn, có thể làm cho dài ngắn, oán thân, lớn nhỏ dung nạp nhau. Đó chính là chứng được thánh quả.[55]
Nhân sâu là ở trong tam kì[56] thực hành tất cả hạnh nguyện và căn bản trí hai không. Lúc ấy công hạnh tròn đủ, nên gọi là Viên.
- Lên tòa kim cang báu.
Luận Câu xá ghi: “Mặt dưới tòa này dính liền với kim luân, cho nên gọi
là tòa Kim cang.” Ba đời chư Phật đều thành đạo tại tòa này. Xưa nay luôn có tăng Trung Quốc đích thân đến đó lễ bái, cúng dường. - Một trăm bốn mươi công đức không giống với Nhị thừa.
Theo Pháp tướng tông thì cho rằng, Đức Phật có một trăm bốn mươi công đức riêng biệt. Đó là: ba mươi hai tướng, tám mươi chủng hảo, mười lực, bốn vô sở úy, ba niệm trụ, ba bất hộ, bốn nhất thiết thanh tịnh, đại từ đại bi, không quên sót, nhất thiết chủng diệu trí. Vì thành tựu quả Phật mới có đầy đủ, nên gọi là riêng biệt.
- Tám vạn bốn nghìn pháp môn, vượt trội hơn mười địa.
Phép tắc của thế gian gọi là pháp. Cội nguồn của chúng thánh gọi là môn. Vì chúng sinh có tám vạn bốn nghìn trần lao, [57] nên số lượng pháp môn cũng tương đương như vậy. Giống như tùy bệnh mà cho thuốc.
Mười địa: Hoan hỉ địa, Li cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Nan thắng địa, Hiền tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa.
Luận Du già ghi: “Đoạn tuyệt những phiền não vi tế nhất và sở tri chướng, không tham đắm, không ngăn ngại, ở nơi tất cả các loại cảnh giới sở tri thị hiện Chính đẳng giác, nên gọi là Phật địa. Vì địa này ở trên mười địa, nên gọi là vượt trội.”
6. Ma quân bị uy hiếp bởi từ lực nên đều sợ hãi và qui phục
Đây là tướng thứ sáu, Bồ tát ở bên cội cây bồ đề hàng phục ma, thành đạo. Như Lai thành đạo năm ngài ba mươi lăm tuổi.
Luận Du già ghi: “Có bốn loại ma: 1. Thiên ma; 2. Tử ma; 3. Phiền não ma; 4. Ngũ ấm ma.” Ở đây nói ma quân tức chỉ cho thiên ma. Đúng lí thì có bốn ma đều bị hàng phục, nhưng theo lập luận rõ ràng, nên gọi là thiên ma.”
Kinh Bản hạnh tập ghi: “Bồ tát vừa ngồi ở đạo tràng thì giữa chặn mày phóng một luồng sáng, gọi là hàng ma. Luồng sáng ấy chiếu thẳng đến cung điện của ma vương. Đây là chỉ cho điềm không bình thường. Cùng lúc ấy cung điện của ma vương chấn động, ma dẫn binh chúng hiện ra đủ loại hình dáng thật đáng sợ, mỗi ma cầm hung khí, dao gậy định hại Bồ tát. Bấy giờ, Bồ tát vào tam muội Từ tâm thì tất cả hung khí đều biến thành hoa sen. Thấy vậy, bọn ma sợ hãi, bỏ chạy tán loạn.”
- Người nữ xinh đẹp giải độc trong tâm định, xấu xí, gầy gò biến chất.
Ma có bốn ma nữ rất xinh đẹp không ai bằng, cùng nhau đến trước Bồtát tạo đủ mọi dáng, muốn phá hoại phạm hạnh. Bấy giờ, Bồ tát dùng sức từ tâm làm cho bốn ma nữ đều biến thành dáng già yếu, xấu xí. Bốn ma nữ xấu hỗ rút lui.
- Bấy giờ, địa thần Kiên Lao vui mừng, đỉnh lễ.
Kinh Phật quán tam muội ghi: “Ma vương hỏi Phật: ‘Ai chứng minh cho công đức của ông? Đức Phật duỗi ngón tay vô úy xuống đất thì ngay lập tức tất cả đại địa sáu thứ chấn động. Khi ấy, địa thần Kiên Lao vọt lên nói rằng: ‘Tôi là người chứng minh.’”
- Trong hư không các thiên tử báo tin cho nhau.
Khi Bồ tát đã thành đạo, địa thần thông báo cho không thần biết, không thần thông báo cho thiên thần. Cho đến các trời thông báo cho nhau biết.
- Những hoa sen giống nhau vọt lên khỏi mặt nước, sắc hoa rực rỡ lạ thường.
Kinh Niết bàn ghi: “Như Lai xuất hiện ở đời thanh tịnh, không nhiễm ô, giống như hoa sen.”
- Trăng mùa thua treo trên không, sáng vằn vặt.
Kinh Niết bàn ghi: “Như Lai xuất hiện ở thế gian giống như trăng rằm mùa thu, sáng trong, tròn trịa, không bị me che khuất, tất cả chúng sinh đều chiêm ngưỡng.”
- Bảy ngày sau nhận xiểu mật của Đề vị và chỉ dạy đôi điều. Bảy ngày là số ngày tính từ khi Như Lai thành đạo trở về sau. Đề vị là hai thương nhân quê ở bắc Thiên Trúc. Xiểu mật là loại thức ăn thông thường ở Thiên Trúc.
Kinh Bản hạnh ghi: “Đức Phật thành đạo được bảy ngày, có vị thần cây mách với hai thương buôn Đề vị và Ba lợi: ‘Hai người nên chuẩn bị đồ cúng cúng dường Như Lai. Hai thương nhân đều dâng cúng Đức Phật xiểu mật. Phật nhận sự cúng dường đó và nói nhân quả của việc bố thí cho họ nghe. Vì thế, nên gọi là chỉ dạy đôi điều.’”
- Phát một âm, truyền giới qui cho khách buôn và ban phước cho người, trời.
Âm thanh của Phật là vô lậu nên gọi là một âm. Khách buôn tức chỉ Đềvị. Giới là năm giới. Quy là tam quy. Quả báo của giữ giới là sau khi chết được sinh lên trời; thấp hơn là sinh làm người. Cho nên nói, ban phúc cho người, trời.
Phương pháp giáo hóa chung của chư Phật có bảy việc cốt yếu: một là nói bố thí, hai là nói giữ giới, ba là nói quả báo sinh lên trời, bốn là nói quả báo được vị vui, năm là nói quả báo gặp hoạn nạn, sáu là dạy lìa thế gian, bảy là khen ngợi công đức của niết bàn. Ở đây nói Đức Phật vừa mới thành đạo, Ngài xét thấy căn cơ thích hợp, chỉ đáng nói quy giới thôi.
- Thành đạo rồi, quán sát duyên sở hóa.
Đức Phật quán sát xem ai là người đáng được độ thoát trước.
- Thương hai vị tiên không gặp được lôi âm.[58]
Hai vị tiên đó chính là A lam ca lan và Uất đầu lam phất. Đức Phật nghĩ hai vị ngoại đạo này phiền não mỏng, căn tánh lanh lợi, muốn độ họ trước, nhưng họ đều đã qua đời bảy ngày trước, nên Đức Phật mới thốt lên: ‘Họ không gặp được chính pháp.’
Kinh Hoa nghiêm ghi: “Chấn lôi âm thật pháp.” Lôi âm là một trong năm loại âm thanh của Như Lai.
- Vui vì có năm người đáng được hóa pháp.[59]
Năm người đó là Kiều trần như, Bạt đề li, Bà sa ba, A xà luân, Ma hanam. Đức Phật lần lượt quán sát thấy năm người này ở vườn Lộc dã, căn duyên hoàn toàn thuần thục đáng được độ.
- Nhưng vì trần căn mê thấp mà thánh trí thì sâu xa.
Tất cả phiền não có thể làm nhơ uế con mắt tâm nên gọi là trần. Đây là gốc của sinh tử. Cho nên gọi là căn. Chỉ có tất cả các diệu trí của Phật mới chiếu soi thấy rõ tất cả pháp trong ba đời không có gì ngăn ngại, nên gọi là thánh trí.
- Thuận theo pháp thì pháp không hợp với căn, thuận theo căn thì căn không đạt pháp.
Pháp hóa nghi[60] của Như Lai có quyền và thật. Căn cơ của chúng sinh tiểu và đại. Đại căn thì truyền cho Tiểu pháp thì cũng giống như cho thức ăn thiêu vào bát báu. Tiểu căn mà nói Đại thừa thì cũng giống như bắt con muỗi chở núi cao. Nếu không quán sát căn cơ thì nhân và pháp đều mất.
- Tất cả bị chìm đắm lâu trong sông ái và mờ tối do nương theo si lạc.
Luận Thuận chánh lí ghi: “Ái là tham thuộc ba cõi, bị xoay chuyển bởi cảnh vui, có thể nhấn chìm chúng sinh, thí dụ như là sông. Chúng sinh không thể tự vượt ra, trải qua thời gian lâu, nên gọi là đắm lâu. Si là vô minh thuộc ba cõi, làm cho không thấy chính đạo, [61] nên gọi là mờ tối. Tất cả chúng sinh đều có đủ chính nhãn, [62] giống như Phật. Nhưng do bị vô minh, vọng tưởng che tối nên không thấy được chính đạo. Vì thế, kinh Pháp hoa ghi: “Các căn của chúng sinh chậm lụt, tham đắm vui nên bị si làm mù.”
- Nếu không đạt được lợi ích từ những gì hiểu biết được, chẳng thà nhập diệt.
Đây là cội gốc của phương tiện. Kinh Pháp hoa ghi: “Nếu chỉ khen ngợi Đại thừa thì chúng sinh sẽ chìm trong khổ, không thể tin pháp ấy, nên bị rơi vào bao đường ác. Thà Ta không nói pháp, mau mau vào niết bàn.”
- Lúc ấy trời Đế thích chủ trời Đao lợi đang cưỡi mây dạo ở Tam thập tam thiên.
Phiên âm đầy đủ của tiếng Phạn là Đa la dạ đăng lăng xá, phiên âm sai và tỉnh lược là Đao lợi. Trung Quốc dịch là Tam thập tam thiên. Trên đỉnh núi Diệu Cao có bốn chóp, mỗi chóp có tám trời, ở giữa là chỗ ở của Đế thích, có cung Thiện hiện, đường Thiện pháp, cộng thành ba mươi ba. Đế thích tức là vị thiên vương kia. Phiên âm tiếng Phạn là Thích ca đề bà na nhân. Theo cách dịch vào đời Tần Trung Quốc là Năng Chủ. Là thầy chung của các thiên vương ở Tam thập tam.
- Kham nhẫn giới vương ủng hộ cho mười tám phạm thiên. Phiên âm tiếng Phạn là Ta bà, hoặc Sách ha tát ha. Trung Quốc dịch là Kham nhẫn. Tức chỉ chung cho Đại thiên giới. Kinh Tự thệ tam muội ghi: “Vì người ở cõi này cứng cỏi khó nhẫn, nên gọi là Kham nhẫn.”
Giới vương tức Đại Phạm thiên vương. Đó là vị trời chủ thế giới Ta bà.
Mười tám phạm vương gồm có: Sơ thiền có ba thiên: Phạm chúng, Phạm phụ, Đại phạm. Nhị thiền có ba thiên: Diệu quang, Vô lượng quang, Quang âm. Tam thiền có ba thiên: Diệu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh. Tứ thiền có chín thiên: Phúc sinh, Phúc ái, Quảng quả, Vô tưởng, Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến, Sắc cứu cánh. Bốn thiền có tất cả mười tám thiên.
Từ ‘Thiền’ và ‘Phạm’ đều có nghĩa là thanh tịnh. Người ủng hộ nhiều như mây: những người khi đến gặp Phật phần nhiều đều như thế.
- Đầu mặt đỉnh lễ, cung kính tinh chuyên, thỉnh chuyển pháp luân, tùy nghi nói pháp.
Đầu và mặt chạm xác đất, tức chỉ năm luân[63] đều đầy đủ. Đó là cách đỉnh lễ trân trọng nhất trong Phật pháp. Vì đó thể hiện lòng chí kính. Khuyến thỉnh là một trong năm pháp. Vì có lợi ích cho cả mình và người, nên tất cả những gì chư Phật nói ra đều gọi là Chuyển pháp luân. Phạm vương, Đế thích đều là người khuyến thỉnh. Tùy nghi nói pháp có nghĩa là phương tiện.
- Như Lai liền nhớ đến quy tắc chung của các bậc Thiện Thệ và bắt theo cách của các Đức Phật trước, ứng với ham muốn thô xấu của chúng sinh.
Như Lai ở đây chính là Đức Phật Thích ca. Thiện Thệ[64] là một Đức Phật thời quá khứ. Nghĩa là bậc đã thành tựu Đẳng chính giác, ra khỏi đêm dài sinh tử, đầy đủ Nhất thiết chủng trí, thành tựu công đức lời mình, lợi người; việc lành đã hoàn tất, cho nên gọi là Thiện Thệ. Phương pháp chung đều là phương tiện khéo léo của Phật. Những ham muốn thô xấu ý chỉ tâm thích pháp Tiểu thừa.
Kinh Pháp hoa ghi: “Liền nhớ đến chư Phật thời quá khứ, dùng sức phương tiện làm được, thì nay đạo mà Ta đạt được cũng nên nói thành ba thừa.”
- Bấy giờ, chư Phật khắp mười phương xuất hiện và dùng lời hay khen ngợi.
Khi Như Lai suy nghĩ phải dùng phương tiện thì chư Phật khắp mười phương đều hiện ra trước và khen ngợi: “Tốt thay! Đức Thích ca văn, Ngài là bậc thầy chỉ đường số một, có thể dùng phương tiện, tùy nghi nói pháp!”
- Từ pháp nhất thừa chia ra hay hợp lại thành trần lao vực.
Ở đây ý nói cửa phương tiện đã mở. Kinh Niết bàn ghi: “Pháp nhất thừa tùy nghi nói thành ba.” Trong cõi sinh tử phiền não, gọi là trần lao vực.
7. Đức Phật rời đạo thụ, đến vườn nai
- Đây là tướng thứ bảy: Chuyển pháp luân ở vườn Lộc dã.
Đạo thụ chỉ cho cây bồ đề, là nơi thành Phật. Đã nhận lời khuyến thỉnh, thì sẽ chuyển pháp luân, lìa cội cây kia, nên gọi là rời. Vườn nai là nơi đầu tiên chuyển pháp luân. Tây vực kí ghi: “Ở nước Ba la nại, khi Đức Phật Thích ca còn ở địa vị tu nhân thực hành Bồ tát hạnh, Ngài làm nai chúa, tên Thiện Lộc Vương, còn Đề bà đạt đa tên là Ác Lộc Vương. Mỗi nai chúa có năm trăm nai dân ở chung trong khu rừng này. Bấy giờ, vua Phạm ma đạt đến khu rừng ấy săn bắn. Khi ấy hai vua chúa và dân chúng của họ đều đang ở trong khu rừng ấy. Lúc ấy, Thiện Lộc Vương đến trước vua và tâu rằng: “Nếu hôm nay đại vương nhốt và đốt hết một lần thì một nghìn dân của chúng tôi sẽ chết, nhưng như vậy thì lượng thịt rất nhiều và vài ngày sau thịt sẽ bị thối rửa; xin đại vương rộng lượng, cho chúng tôi mỗi ngày đem đến nhà bếp của đại vương một con nai; như vậy đại vương sẽ được thịt nai tươi ngon, mà dân chúng tôi cũng được kéo dài mạng sống tôi thêm một ngày một đêm.” Vua nghe có lí, nên chấp nhận lời thỉnh cầu của nai Thiện Lộc Vương.
Hai bầy nai đó luân phiên nhau mỗi ngày đem đến nhà bếp của vua một con, không dám trái hẹn. Vào một ngày kia, đến lượt bầy của Ác Lộc Vương. Hôm đó, đến lượt một con nai cái, nhưng nó lại có mang. Nai cái xin Ác Lộc Vương cho dời ngày, đợi sau khi sinh nở sẽ đến lượt nó, nhưng Ác Lộc Vương không đồng ý. Nai cái đến xin Thiện Lộc Vương, Thiệt Lộc Vương nói: “Đáng thương! Đúng là mẹ hiền! Đã có ân từ khi chưa tượng hình. Ngươi hãy an lòng, ta sẽ thay ngươi!”
Khi ấy, Thiện Lộc Vương tự đi đến nhà bếp của vua. Thấy Thiện Lộc Vương đến, người đầu bếp lấy làm lạ nên tâu với vua.
Vua hỏi: Vì sao ngươi đến đây?
Thiện Lộc Vương tâu: Hôm nay đến lượt con nai cái, nhưng nó có mang, nên xin dời lại, lại không có con nào chịu thay thế; bởi lẽ, dù mạng sống chỉ đáng một ngày, nhưng ai lại không bảo vệ, luyến tiếc. Tôi phần vì không nỡ để nó chết, phần vì sợ thất hẹn, nên tự nguyện đến nhà bếp. Vì vậy, xin đại vương chấp thuận.
Vua nghe Thiện Lộc Vương nói thốt lên rằng: “Lành thay! Ngươi có lòng từ bi bao la, còn ta thì lòng lang dạ sói. Ta nguyện không ăn thịt, từ nay về sau các ngươi không cần đến đây nữa.” Nhân đó, vua dành khu rừng ấy để làm vườn nuôi nai.
Đức Phật quán sát biết vùng đất ấy thuở xưa có nhân duyên như vậy, nên đầu tiên Ngài đến đó thuyết pháp và cũng là để báo đáp ân của vùng đất ấy.
- Ba tháng điều hòa các căn; năm người được độ; Kiều Trần Như là người đầu tiên liễu ngộ lời của đấng Từ Tôn và được gọi là sáng giải tiêu danh.
Ba tháng điều hòa các căn ý chỉ đợi thời cơ thích hợp. Phật quán sát thấy căn duyên năm người sắp thuần thục, nên đến hóa độ, nhưng họ vẫn chưa tin nhận.Vì thế, Phật hiện các thứ thần biến để điều phục họ. Khoảng ba tháng sau, Phật mới tam chuyển Tứ đế mười hai hành pháp luân.
Trong năm người ấy, Kiều Trần Như là người ngộ giải được pháp nhãn tịnh[65] đầu tiên, tức chứng A la hán. Đức Phật gọi là A nhã Kiều Trần Như. Đây là vị đệ tử xuất thế đầu tiên của Phật.
Phiên âm tiếng Phạn là A nhã, Trung Quốc dịch là Giải. Cho nên gọi là Sáng giải tiêu danh.
Bốn người còn lại cũng lần lượt đắc đạo.
Lại nữa, Kiều Trần Như còn gọi là Trần na. Trung Quốc dịch là Hỏa Khí. Vì tổ tiên tôn giả thờ lửa nên lấy họ Hỏa. Sở gì tôn giả được độ trước nhất vì vốn có túc nhân.[66]
Kinh Nhân quả ghi: “Khi Đức Phật Thích ca còn ở địa vị tu nhân, Ngài là Nhẫn Nhục Tiên Nhân, tu đạo trong một khu rừng. Khi đó, Kiều Trần Như là quốc vương Ca lợi, bẩm tính bạo ác. Một ngày kia, vua dẫn các cung nữ vào rừng săn bắn. Vì quá mệt nên tất cả đều chợp mắt lúc nào không hay. Lúc ấy, cũng có các thị thần vào rừng hái hoa. Họ đi đến am tranh của tiên nhân. Tiên nhân nói pháp cho họ nghe. Một hồi lâu, vua tỉnh dậy, không thấy các cung nữ, vua cầm gươm đi tiềm thì thấy họ tụ tập trước am tranh của tiên nhân.
Vua giận dữ hỏi: Ngươi là ai?
Tiên nhân đáp: Là Tiên nhân Nhẫn Nhục.
Vua hỏi: Đạt được Thượng địa định chưa?
Tiên nhân đáp: Chưa.
Vua nói: Nếu chưa được Thượng định thì còn là phàm phu.
Nói dứt lời, vua rút gươm chặt đứt tay chân của tiên nhân. Thấy thần sắc tiên nhân bất động, vua hỏi: Ngươi có hận ta không?
Tiên nhân đáp: Không hận và phát nguyện: ‘Nguyện khi thành Phật tôi sẽ độ bệ hạ trước.’
Vì thế, nay Ngài đã thành Phật nên độ tôn giả Kiều Trần Như trước. Tôn giả Kiều Trần Như chính là vua Ca lợi khi xưa.”
- Xá lợi phất gặp Mã Thắng vì lời truyền dạy mà trên đường đi được kiến đế.
Phiên âm tiếng Phạn là Xá lợi phất đa, Trung Quốc dịch là Thu Tử. Đây là cách đặt tên lấy theo họ mẹ. Tôn giả vốn là đệ tử của ngoại đạo Sanxà gia, thông đạt mười tám bộ luận lớn, biện tài[67] không ai bằng. Nhưng thường than rằng sở học và thầy của mình đều chẳng phải chân chính. Và chê ngoại đạo thờ và thực hành những điều thô ác.
Một hôm, trên đường đi tình cờ tôn giả gặp tì kheo Mã Thắng y phục chỉnh tề, tay cầm gậy, tay ôm bát bước đi nhẹ nhàng. Tôn giả vui mừng và hỏi: Thầy của ông là ai?
Tì kheo Mã Thắng đáp: Phật đại sa môn là thầy của tôi. Tôn giả hỏi: Phật nói pháp gì?
Tì kheo Mã Thắng đáp: Tôi chỉ mới xuất gia vài ngày, nên không nhớ hết những gì thầy tôi nói. Nhưng nay tôi có thể nói cho ông nghe bài kệ: Các pháp do duyên sinh
Cũng do nhân duyên diệt Thầy tôi Phật sa môn
Thường hay dạy như thế.
Tôn giả Xá lợi phất nghe tì kheo Mã Thắng nói bài kệ thì ngộ giải liền. Đế là thật nghĩa. Tì kheo Mã Thắng chính là tôn giả A xà luân, là một trong năm người được Phật độ đầu tiên ở vườn Nai.
- Họ Thái Thúc tiếp bước thờ thầy và tất cả đề tử đều quay về.
Họ Thái Thúc chính là họ của tôn giả Đại Mục kiền liên. Trước kia, tôn giả và tôn giả Xá lợi phất cùng học một thầy. Hai tôn giả từng lập ước: ‘Nếu người nào được cam lộ[68] thì cùng chia sẽ.’ Hôm ấy, thấy tôn giả Xá lợi phất trở về thần sắc tươi vui, nên tôn giả Mục kiền liên hỏi: ‘Huynh được thắng pháp phải không?’ Tôn giả Xá lợi phất kể lại việc gặp tì kheo Mã Thắng và cũng nói lại bài kệ ấy. Tôn giả Mục kiền liên nghe qua cũng ngộ chính lí. Hai tôn giả nói với nhau: ‘Pháp của ngoại đạo chỉ nhọc công vô ích!’ Rồi hai người đồng lòng, mỗi người dẫn hai trăm năm mươi đệ tử của mình đến theo Phật xuất gia. Đức Phật nói: ‘Khéo đến đây!’ Ngay lập tức hai tôn giả râu tóc tự rụng, ca sa trùm thân. Phật nói với mọi người: ‘Hai người đệ tử này, trong đó Xá lợi phật là trí tuệ bậc nhất, Mục kiền liên là thần thông bậc nhất.’
- Họ Ca diếp vựng dấu chân, hàng phục tâm, lãnh đồ chúng đạo thờ lửa về với Phật.
Họ Ca diếp tức là họ của ngoại đạo thờ lửa Ưu lâu tần la. Đức Phật muốn giáo hóa người này nên đến nhà xin ngủ nhờ. Ca diếp từ chối, nói không có phòng. Đức Phật xin ngủ lại trong nhà thờ rồng. Ca diếp nói, rồng rất hung dữ, sợ nó làm hại Ngài. Đức Phật nói, không sợ. Rồi Đức
Phật sửa y phục vào đó ngồi. Đến khuya thì rồng trở về, vừa thấy Đức Phật nó liền nổi giận, phun lửa đốt Phật. Phật nhập Hỏa quang tam muội, cả phòng đều rực rỡ, không có chỗ nào để con rồng ẩn núp. Rồng nhìn thấy chỉ có cái bát của Phật mát mẻ nên bay vào đó. Đêm hôm đó, Ca diếp thấy lửa cháy mạnh mới nói với các đệ tử: ‘Sa môn kia chắc phải chịu khổ rồi!’ Sáng ngày, Đức Phật ôm bát đi ra và mở bát chỉ con rồng cho Ca diếp xem. Khi ấy, Ca diếp nể phục đôi chút, nên thỉnh Phật lưu lại vài ngày để cúng dường, nhưng ông vẫn chưa chịu thụ pháp. Vì vậy, Đức Phật hiện năm trăm thứ thần biến, ông mới chịu qui y. Rồi Ca diếp và hai trăm năm mươi đệ tử cùng xin Phật xuất gia. Ông vừa xuất gia thì các chướng dứt sạch, ý ngộ giải, thành A la hán. Ca diếp đem tất cả những đồ thờ cúng lửa ném xuống sông.
Ca diếp có hai người em là Già da và Ca đề, đang sống ở hạ nguồn, cũng thờ rồng lửa. Hai người em thấy các vật thờ cúng trôi trên sông, vội vàng chạy đến chỗ Ca diếp xem thử, thì thấy anh đã thành sa môn. Hai người hỏi nguyên nhân, Ca diếp nói pháp cho họ nghe. Nghe xong, hai
người cùng hai trăm năm mươi đệ tử cũng xin theo Phật xuất gia và đều chứng đạo quả.
Chữ ‘vựng’ cũng giống như ‘loại’, có nghĩa là ‘theo’. Ưu lâu là ‘loại’. Lĩnh tụ hai em theo mình.
Kinh Dịch ghi: “Nhổ cỏ tranh là quẻ nói về theo người đi chinh chiến.” Ba anh em Ca diếp và tất cả đệ tử đều bỏ đạo thờ lửa, theo Phật xuất gia, nên gọi là Về với Phật.
- Cam lộ tưới ướt tất cả, Mạt ni ứng hợp cùng khắp.
Cam lộ là một loại thượng vị ở cõi trời. Ở đây dụ cho diệu pháp nhất thừa.[69] Mạt ni hay còn gọi là Ma ni. Trung Quốc dịch là Vô cấu, tức là bảo châu. Nghĩa là dùng đặc tính sáng suốt của bảo châu để nhận biết sắc của mọi vật. Ở đây dụ cho sự tự tại của Phật thích hợp với muôn vật và tùy theo căn cơ mà truyền dạy giáo pháp.
- Cõi trời.
Phật thành đạo được hai mươi mốt ngày, tại cung trời Tha Hóa Tự Tại,
Thiên vương thỉnh Phật nói kinh Thập địa. Sau đó, cũng tại nơi ấy, Đức Phật nói kinh Bát nhã Lí Thú. Tại cung trời Ma hề thủ la, Đức Phật nói kinh Văn thù Thiên Bát. Tại lầu Phổ Biến Quang Minh của cung trời Đao lợi, Đức Phật nói kinh Nhất tự kì đặc Phật đỉnh. Cũng ở trời Đaolợi này, suốt ba tháng mùa hạ, Đức Phật nói pháp cho hoàng hậu Ma da nghe.
- Cõi người.
Cõi người là chỉ cho những nơi thuộc mười sáu nước ở Ngũ thiên trúc.
- Anh lâm, thi lâm.
Kinh Bách duyên ghi: “Đức Phật từ nước Xá vệ đi đến nước Ma kiệtđà, trên đường đi có khu rừng Anh Vũ. Bấy giờ, vua Anh Vũ và thân thuộc của vua ở trong cung Phi Tường ra đón rước, thỉnh Phật và chúng tăng: “Xin Phật và chúng tăng lưu lại khu rừng của chúng con một đêm để chúng con được cúng dường.” Phật nhận lời thỉnh cầu của vua Anh
Vũ và cùng với chúng tăng vào rừng ngồi thiền. Chim anh vũ thấy Đức Phật tướng tốt ngời sáng, chúng tăng oai nghi tịch tĩnh, nên mỗi mỗi đều đều sinh tâm hoan hỉ, kính tin. Cũng trong ngày hôm đó, cả đàn anh vũ bỗng nhiên chết hết. Sau khi chết, tất cả đều sinh lên trời Đao lợi.” Kinh Niết bàn ghi: “Một thời, Đức Phật trú ở trong rừng Thi thủ bên bờ sông Hằng. Khi ấy, Đức Thế Tôn nắm lấy một ít lá cây rồi hỏi các thầy tì kheo: “Lá Ta đang nắm trong ta nhiều hay lá trong tất cả đại địa nhiều?” Các thầy tì kheo thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Lá trong tất cả đại địa nhiều hơn, không thể tính đếm được, còn lá trong tay Như Lai thì ít, không đáng kể.” Đức Phật dạy: “Tất cả các pháp Ta giác ngộ được giống như cỏ, cây, lá trong đại địa, còn pháp Ta nói cho các chúng sinh nghe giống như lá trong tay của Ta vậy.” - Hồ Lộ.
Trong vườn trúc ở Ca lan đà thuộc thành Vương Xá có cái hồ, gọi là Bạch Lộ. Đây là nơi Đức Phật từng khai hội lần thứ mười sáu, nói kinh Bát nhã.
- Đỉnh Thứu.
Là núi Linh Thứu ở thành Vương Xá. Phiên âm tiếng Phạn Kì xà quật, chính là ngọn núi này. Đây là nơi Đức Phật nói các kinh Đại Bát nhã, Pháp hoa v.v…
- Hải điện.
Đức Phật ở trong lầu báu tại đại đạo tràng Cát tường Ma ni bảo tạng thuộc cung Nan đà của Long vương nói kinh Đại vân luân thỉnh vũ.
- Vườn Am.
Chính là tên của trái Am ma la. Trong vườn có trồng nhiều loại cây này. Đức Phật ở đây nói các kinh Tịnh Danh v.v… - Sông Di hầu.
Gần thành Tì da li có ao Di hầu. Phía trên ao có núi và có một tinh xá.
Đức Phật ở trong tinh xá đó nhập Bất động tam muội, độ năm trăm khách buôn, đều chứng A la hán. Cũng tại nơi đây, đại chúng từng hỏi Đức Phật về nhân duyên thời quá khứ của tì kheo ni Da du đà la và năm trăm khách buôn. - Hang rồng lửa.
Tây vực kí ghi: “Ở phía tây của một nước nọ thuộc bắc Ấn độ có cái hang động lớn. Đó là nơi cư trú của long vương Cù ba. Long vương ấy bỗng nhiên sinh tâm ác muốn hại vua và phá nước. Đức Phật biết được, Ngài vận thần túc[70] đi đến hang động ấy. Long vương thấy Phật vui mừng, tâm ác liền dứt. Đức Phật nói pháp cho long vương nghe và truyền cho giới không sát. Nhân đó, long vương thỉnh Phật: “Xin Ngài trụ lại đây và nhận sự cúng dường của con!” Đức Phật nói: “Ta sắp tịch diệt, nay sẽ để lại ảnh của Ta ở đây cho ngươi. Sau khi Ta đã diệt độ rồi, nếu ngươi sinh tâm ác thì hãy nhìn hình ảnh của Ta và Ta sẽ cho năm trăm A la hán trụ ở đây để nhận sự cúng dường của ngươi. Những vị ấy sẽ làm ruộng phúc cho ngươi. Nhờ đó, thành ấp trong nước mãi mãi không còn lo sợ gì nữa.”
Ghi chú: Đời Đường, Tam tạng Huyền Tráng pháp sư đích thân đến đó lễ bái cúng dường. Ảnh Phật ở đó, nếu đứng xa nhìn thì thấy sắc vàng sáng chói, nhưng nếu lại gần thì không thấy gì cả.
- Cư trú tại Ba la nại.
Phiên âm chính xác tiếng Phạn là Ba la nạch tư, Trung Quốc dịch là Giang Nhiễu quốc. Nơi này Đức Phật từng nói các kinh Xuất diệu, Trì thế, Chuyển pháp luân v.v..
- Cư trú ở Ma kiệt đề.
Ma kiệt đề các bản dịch đời Đường, Trung Quốc dịch là Vô Khuể Hại quốc. Đức Phật từng ở tại nước này và nói các kinh Hoa nghiêm, Bản khởi, Hiền ngu v.v…
- Trú ở rừng Kiến Cố.
Phiên âm tiếng Phạn là Sa la, Trung Quốc dịch là Kiên Cố. Dao pháp sư dịch là Kiên Lâm. Tức là nơi Đức Phật cư ngụ trước khi nhập niết bàn và Ngài đã nói các kinh Niết bàn v.v… ở đây.
- Ở dưới cây Nhạc Âm.
Nơi đây chính là thành Duy da li. Đức Phật ở dưới cây này nói kinh Quán đỉnh bạt trừ sinh tử đắc độ.
- Bên bờ biển, đỉnh Lăng già.
Núi này ở bên bờ biển phía nam Thiên Trúc. Phiên âm tiếng Phạn là
Lăng già, Trung Quốc dịch là Bất Khả Vãng. Chỉ có người đạt được thần thông mới đến núi ấy được. Đức Phật từng ở đây nói kinh Nhập Lăng già sơn.
- Bên vách núi Bổ đà.
Phiên âm đầy đủ của tiếng Phạn là Bổ đát lạc ca. Ở đây phiên vừa âm sai, vừa giản lược nên đọc là Bổ đà. Trung Quốc dịch là Tiểu Bạch Hoa. Vì núi ấy hoa ấy nở rất nhiều, hương thơm bay xa. Đây chính là trụ xứ của Bồ tát Quán Tự Tại. Đức Phật từng trụ ở đây nói kinh Thập nhất diện Quán Tự Tại.
- Vườn trúc Ca lan đà.
Phiên âm tiếng Phạn là Ca lan đà, Trung Quốc dịch là Hảo Âm. Đây là tên của một giống chim ở Tây Vực. Trưởng giả Ca la đà và vua Tần bàsa la cùng nhau lập tinh xá rồi thỉnh Phật và chúng tăng về trụ ở đó.
- Đất vàng ở nước Xá vệ.
Phiên âm tiếng Phạn là Thất la phạt, mà phiên âm sai thành Xá vệ. Trung Quốc dịch là Văn Vật Thành. Trong thành ấy có trưởng giả Tuđạt nã. Trung Quốc dịch là Thiện Thí. Trưởng giả thường cứu giúp những người neo đơn, nghèo khổ. Vì người trong nước kính trọng ông nên đều gọi ông là Trưởng giả Cấp Cô Độc. Một hôm, ông đến nhà trưởng giả Hộ di ở thành Vương Xá để hỏi vợ cho con, thấy nhà kia chuẩn bị hương, hoa, đồ ăn, thức uống để sáng mai cúng dường Phật. Tu đạt nã vốn thờ ngoại đạo, nay tình cờ nghe danh tiếng của Phật, lòng sững sờ, lông dựng đứng. Đêm hôm đó, ông đến đỉnh lễ Phật và nghe pháp, tiên nghiệp[71] liền phát, được tâm chính tín, chứng được sơ quả, rồi thỉnh Phật đến nước ông. Đức Phật nhận lời mời của ông. Sau đó, trưởng giả trở về nhà và tìm nơi đất tốt, thì chỉ thấy khu vườn của thái tử Kì đà cao thoáng, vuông rộng, thích hợp xây dựng tinh xá. Trưởng giả đến gặp thái tử hỏi mua. Thái tử nói đùa: “Nếu ông trải vàng khắp khu vườn thì tôi sẽ bán.” Trưởng giả Tu đạt cười, nói: “Khu vườn này sẽ thuộc về tôi!” Rồi trưởng giả trở về nhà cho người chở vàng trải tám mươi khoảnh.[72] Vì thế, nên ông mua được khu vườn và xây dựng tinh xá Kì hoàn. Ngày nay gọi chùa Phật là đất vàng, ruộng vàng là do nguyên nhân ấy.
- Ứng niệm không hiện.
Vua Ba tư nặc và Mạt lợi phu nhân gặp Phật, tin pháp rồi, bàn với nhau: “Thắng man con chúng ta thông tuệ, căn tính nhạy bén, sáng suốt dễ ngộ, nếu được gặp Phật ắt mau đắc đạo; vậy chúng ta nên đưa tin báo cho nó biết. Sau đó, Thắng man nghe công đức của Phật hoan hỉ đỉnh thụ, nói kệ khen Phật, nguyện Phật xót thương làm cho con thấy được Phật. Khi Thắng man khởi niệm ấy, Đức Phật Thích ca Như Lai bỗng ở trong hư không hiện vô tỉ thân. Nhờ đó, Thắng man thấy được Phật và được Phật nói mười lăm chương Thập thọ tam nguyện v.v…, còn gọi là kinh Thắng man.
- Rời khỏi núi, cung điện xuất hiện.
Phật từ đỉnh núi Linh Thứu ra đi, rồi đến cung trời Đao lợi; rời khỏi núi Tu di xuất hiện ở cung Diệm ma. Cho đến ở tại những nơi ấy nói các kinh Hoa nghiêm v.v…
- Nói pháp ví dụ về sáu phương.
Kinh Ưu bà tắc giới ghi: “Con của trưởng giả Thiện Sinh hỏi Phật: Các thầy ngoại đạo dạy mọi người sáng sớm đỉnh lễ sáu phương thì được sống lâu, giàu sang, trong Phật pháp có đỉnh lễ như thế này không?
Phật đáp: Cũng có. Như lễ phương đông là đàn ba la mật đa; lễ phương nam là thi ba la mật đa; lễ phương tây là Sạn đề ba la mật đa; lễ phương bắc là Tì lê da ba la mật đa; lễ phương dưới là thiền Ba la mậtđa; lễ phương trên là Bát nhã ba la mật đa. Nếu người nào mỗi ngày chính quán lễ bái, cúng dường thì sẽ được sống lâu và giàu sang.
- Hóa thân biến thành ba xích.[73]
Trưởng giả Cụ sư la thân cao ba xích, để giáo hóa ông ta quay về với chính pháp, Đức Phật cũng hóa hiện ra thân cao ba xích. Như các kinh thường nói: “Người nào nên dùng thân này để độ thì hiện thân này nói pháp cho họ nghe.”
- Lòng bàn tay đặt lên đầu và ngón chân làm chấn động.
Lòng bàn tay đặt lên đầu: kinh Lăng nghiêm ghi: “Khi Đức Thế Tôn dùng tay Diêm phù đàn sắc vàng xoa đầu tôn giả A nan. Ngay lúc ấy, các thế giới của chư Phật khắp mười phương đều sáu thứ chấn động. Chư Như Lai trụ ở các thế giới nhiều như vi trần mỗi mỗi đều phóng ánh sáng báu. Tất cả đều cùng nhau đến rừng Kì đà rưới nước lên đầu tôn giả A nan.”
Ngón chân làm chấn động: kinh Tịnh Danh ghi: “Phạm vương Loa kết nói với tôn giả Xá lợi phất: ‘Tôi thấy cõi này giống như cung điện của trời Tự Tại.’ Tôn giả Xá lợi phất nói: ‘Tôi thấy cõi này đầy dẫy những gò núi, hầm hố và các thứ dơ xấu.’ Lúc ấy, Đức Thế Tôn dùng ngón chân ấn xuống đất thì ngay lập tức Tam thiên đại thiên thế giới đều biến thành bảy báu trang nghiêm, giống như cõi nước của Phật Bảo Trang
Nghiêm.”
- Hào quang của Phật chiếu đến, một thân gồm thâu nhiều thân.
Kinh Pháp hoa ghi: “Bồ tát Đại Nhạo Thuyết muốn thấy các Đức Phật do Đức Phật Thích ca Như Lai phân thân ra. Bấy giờ, Đức Thế Tôn phóng ra tướng sáng bạch hào chiếu soi khắp mười phương, mỗi phương chiếu đến năm trăm vạn ức na do tha hằng hà sa nước Phật. Khi ấy, chư Phật ở những nước ấy, mỗi vị dẫn theo một vị Đại Bồ tát để làm thị giả đều đến cõi này. Các Đức Phật như thế đều là thân biến hóa của Phật Thích ca.”
- Ở cõi này mà biết được cõi khác.
Kinh Quán vô lượng thọ ghi: “Phu nhân Vi đề hi cầu sinh Tịnh Độ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền làm hiển bày các tịnh độ của chư Phật khắp mười phương để cho Vi đề hi quan sát và tự chọn nguyện sinh về nơi nào. Viđề hi liền chỉ về cõi nước của Đức Phật A di đà và nói: ‘Con nguyện sinh về cõi kia’. Lúc ấy, Đức Phật phu nhân Vi đề hi tu tập mười sáu pháp quán.”
- Biến thành cõi tịnh để dùng tịnh che uế.
Kinh Phật phương tiện báo ân ghi: “Đức Phật phóng quang minh lớn chiếu đến cõi nước của chư Phật khắp mười phương, liền có vô lượng trăm nghìn Bồ tát tìm đến chỗ Phật. Lúc ấy, thế giới Ta bà không có các núi, sông, rừng, ao hồ v.v…” Kinh Pháp hoa ghi: “Đức Phật ba lần biến ruộng đất trong mười phương đều thành nghiêm tịnh.” Kinh Nhân vương ghi: “Phật hiện bất khả tư nghì thần biến cho đại chúng thấy và làm cho một cõi Phật nhập vào vô lượng cõi Phật; vô lượng cõi Phật nhập vào một cõi Phật; và làm cho những điều thanh tịnh ẩn mất những điều nhơ uế hiển bày và ngược lại.”
- Thuận theo đời nhưng làm cho đời biết chân.
Những pháp Phật nói đều không ra ngoài hai đế. Hai đế đó là tục đế và chân đế. Hoặc nói dù ở tục đế nhưng lí qui về chân thật; hoặc tức tục tức chân; hoặc nhân tục mà biết chân.
Kinh Nhân vương ghi: “Vua Ba tư nặc hỏi: ‘Trong thắng nghĩa đế có thế tục đế không?’ Đức Phật nói: ‘Nay Ta không nói, nay vua không nghe; không nói không nghe, đó gọi là một nghĩa hay hai nghĩa?’” Mười sáu quốc vương đều suy nghĩ thế này: “Đức Thế Tôn đại từ làm lợi ích cho tất cả, chúng ta làm sao bảo vệ quốc gia?” Nhân đó, Như Lai nói kinh Bồ tát hộ Phật quả chân thật thậm thâm bát nhã.
- Lời đáp trong hang sâu, tiếng vọng của hồng chung.
Ở đây ý nói Như Lai tùy theo căn cơ thích hợp mà nói pháp.
- Trong thời gian đó Đức Phật nói bốn hữu của A hàm và tám không của Bát nhã.
Trong ba mươi năm sau ngày thành đạo, Đức Phật nói hai giáo này. Vì tùy theo căn cơ của chúng sinh. Phiên âm tiếng Phạn là A hàm, Trung
Quốc dịch là Pháp Qui. Đây là Tiểu thừa giáo. Giáo này có bốn bộ: 1. Trường A hàm; 2. Trung A hàm; 3. Tạp A hàm; 4. Tăng Nhất A hàm. Vì giáo này nói Nhất thiết pháp hữu, nên gọi là Tứ hữu.
Phiên âm tiếng Phạn là Bát nhã, Trung Quốc dịch là Tịnh Tuệ. Đây là Đại thừa giáo. Vì giáo này nói Nhất thiết pháp không và có tám bộ, nên gọi là Bát không.
- Mật nghiêm, Hoa nghiêm, Phật tạng, Địa tạng.
Đây là tên gọi của bốn bộ kinh Đại thừa. Gọi Địa tạng chính là kinh Thập luân.
- Sự thỉnh vấn của Tư Ích.
Tư Ích là tên của một vị Phạm thiên. Vì vị này thỉnh vấn nghĩa giáo pháp nên lấy tên người đặt tên kinh.
- Ngữ tâm của Lăng già sơn.
Đó là kinh Nhập Lăng già sơn. Đây là một bộ kinh Đại thừa. Kinh này là tâm, là tông, nên gọi là Ngữ tâm.
- Vạn hạnh Thủ Lăng nghiêm.
Thủ Lăng nghiêm là tên gọi khác của Tam muội. Kinh này dựa theo pháp được nói mà đặt tên kinh.
- Nhất thừa vô lượng nghĩa.
Vô lượng nghĩa xứ cũng gọi là Tam muội. Kinh này cũng dựa theo pháp được nói mà đặt tên kinh.
- Đại bi Phân đà lợi.
Phiên âm tiếng Phạn là Phân đà lợi, Trung Quốc dịch là Bạch Liên Hoa. Kinh này dựa theo thí dụ mà đặt tên kinh.
- Pháp cự Đà la ni.
Phiên âm tiếng Phạn là Đà la ni, Trung Quốc dịch là Tổng Trì. Vì pháp tổng trì có công dụng tịch chiếu được dụ như đuốc. Kinh này dựa theo năng dụ và sở dụ mà đặt tên.
- Nói kinh Vô cấu xưng.
Phiên âm tiếng Phạn là Duy ma la cật. Trung Quốc dịch là Tịnh Danh, Vô cấu; tất cả đều đồng một nghĩa. Nhưng vì có người dịch hay, có người dịch chưa hay nên có nhiều tên khác nhau như vậy.
- Kinh Tu đạt nã Thụy ứng.
Phiên âm tiếng Phạn là Tu đạt nã, Trung Quốc dịch là Thiện Thí. Kinh này nói về tên của Phật Thích ca khi còn ở địa vị tu nhân. Khi đó, Bồ tát làm thái tử vì thực hành hạnh bố thí nên bố thí cả vợ và hai người con, nên có tên như vậy. Kinh này dựa theo pháp được trình bày mà đặt tên.