Bậc cao đức đương thời là pháp sư Tịnh Không, họ ngoài đời là Từ, tên tự là Nghiệp Hồng, thuộc gia đình vọng tộc ở An Huy. Từ trẻ đã quảy tráp sang Nam Kinh, tuổi tráng niên vào lính, báo ân quốc gia. Thần Châu thay đổi màu cờ, Sư vượt biển đến Đài Loan. Sẵn có huệ căn, tâm Sư hướng đến Phật thừa, ngộ thế sự vô thường, chán lìa sanh tử. Trước và sau khi xuống tóc, Sư đã từng cầu pháp nơi các vị tôn túc như Chương Gia đại sư, trưởng lão Bạch Thánh, cụ Lý Bỉnh Nam, rồi theo học tại Trung Quốc Tam Tạng Phật Giáo Học Viện tại Đài Bắc, dốc lòng nơi thánh điển, xem rộng khắp kinh luận, hạnh lẫn giải đều sâu, thành tựu trác việt.
Gặp thời Mạt Pháp, các sự khổ chen nhau nung nấu, đời ác ngũ trược, tam độc hừng hực, Sư ôm lòng bi mẫn tha thiết, dốc chí độ sanh, cân nhắc vận mạng của giáo pháp rồi chuyên tâm hoằng dương Tịnh Độ. Suốt ba mươi mấy năm, Sư qua lại các nơi như Đài Loan, Hương Cảng, Singapore, Mã Lai, Mỹ, Gia Nã Đại v.v... hoằng Tông, diễn Giáo, xướng suất niệm Phật, vì pháp quên thân, nằm chẳng ấm chiếu, dốc sức tận tụy, lưỡi bỏng, môi khô.
Hôm trước, hội trưởng Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội cầm bản thảo cuốn Di Đà Yếu Giải Giảng Ký của Sư tới đây, sai Vân viết lời tựa. Vân mở sách đọc qua, cảm nhận sâu xa [lời Sư giảng giải] đã trần thuật tông chỉ, trình bày mạch lạc, đáng ca ngợi là một tác phẩm khế lý, khế cơ.
Xét ra, phương pháp tu học trong Phật giáo được mệnh danh là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”, rộng rãi, tinh vi, sâu thẳm, ngàn muôn đầu mối, hạng phàm phu lè tè sát đất quả thật chẳng thể nắm được tông chỉ, yếu lãnh. Sách Di Đà Yếu Giải là bộ sách trọng yếu xiển dương, giải thích kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà là kinh pháp khai thị “trì danh niệm Phật, đới nghiệp vãng sanh, vượt thoát khỏi tam giới theo chiều ngang”. Pháp môn này “thích hợp trọn khắp ba căn, thâu tóm lợi căn lẫn độn căn”, thực hiện dễ, thành công cao. Chỉ cần đầy đủ ba món tư lương sẽ đạt được ba môn Bất Thoái. Quả thật là pháp “thuận tiện nhất trong các pháp thuận tiện, là con đường tắt nhất trong những con đường tắt”. Do vậy, cổ đức đã từng bảo: “Nhân thiên lộ thượng, tác phước vi tiên, sanh tử hải trung, niệm Phật đệ nhất” (Trong nẻo trời người, làm phước đứng đầu, trong biển sanh tử, niệm Phật bậc nhất).
Nay Tịnh công pháp sư vận dụng duệ trí, biện tài, tuyên thuyết chân nghĩa của sách Yếu Giải, lại được trưởng giả Lưu Thừa Phù chép lại thành sách, in tặng, lưu truyền, lợi lạc khắp mọi căn cơ. Dụng tâm hết sức tốt đẹp, công đức vô lượng. Vân ăn bám Như Lai, chẳng làm được một điều gì, kinh sợ, viết bài văn thừa thãi này hòng tùy hỷ tán thán!
Cuối tháng Chạp năm 1996, Thích Tường Vân viết lời tựa tại Đài Loan
Nội dung sách Phật Thuyết Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký
I. Dẫn nhập
II. [Giảng giải] lời tựa nêu nguyên do soạn sách Yếu Giải [của Ngẫu Ích đại sư].
III. Giải thích phần Huyền Nghĩa
1. Thích Danh (giải thích tên kinh).
2. Biện Thể (luận định Thể).
3. Minh Tông (giảng về Tông, tức điều được đề cao, cương lãnh tu học của bản kinh này).
4. Luận Dụng (luận định lực dụng, tức hiệu quả giáo hóa của kinh này).
5. Minh Giáo Tướng (phán định giáo tướng, tức luận định kinh này thuộc về thời nào, giáo nào trong Ngũ Thời Bát Giáo, căn cơ nào được hóa độ bởi bản kinh này).
IV. Chính thức giảng vào nội dung bài kinh:
1. Phần Tự
1.1. Thông Tự.
1.2. Biệt Tự.
2. Phần Chánh Tông
2.1. Trình bày chi tiết sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của diệu quả để khơi gợi lòng tin.
2.2. Khuyên chúng sanh hãy nên phát nguyện cầu vãng sanh.
2.3. Dạy hãy lập hạnh chấp trì danh hiệu.
3. Phần Lưu Thông
3.1 Phổ Khuyến
3.1.1. Khuyến tín lưu thông.
3.1.2. Khuyến nguyện lưu thông.
3.1.3. khuyến hành lưu thông.
3.2. Kết khuyến.
Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký