Kinh Kim Quang Minh là lời dạy cùng cực, đầy đủ chữ nghĩa, trống vàng đánh trong mơ; lý cực chân không, Bảo tháp vọt lên trên đất. Quả đủ ba thân, đền đáp báo xưa không thiếu; nhân mười địa tròn, hiển hiện túi Kinh đầy đủ. Sở dĩ hiệu Kinh Vương được xưng đến thế thì mới biết người hay khen ngợi rộng! Địa vị ấy khó lường lắm vậy!
Sa môn Thích Bảo Quí ở chùa Đại Hưng Thiện tiếp cận với chân thế Đạo An thần túc, khâm phục sự sáng giỏi, thật đáng gọi là bậc lương tài, học tập nghiên cứu nhiều Kinh, chưa từng hở tay, đáng gọi là thân tử của Cù Đàm, Nhan Uyên của Khổng Thị vậy. Nhưng Quí tôi nhìn thấy Sa môn Chi Mẫn Độ ở triều Tấn xưa hợp hai Chi hai Trúc, năm bản Thủ Lăng Nghiêm của Bạch ngũ gia làm một bộ, phân làm tám quyển. Lại hiệp một Chi, hai Trúc, ba bản Duy Ma của ba nhà làm một bộ, phân làm năm quyển. Nay Sa môn Tăng Tựu lại hiệp hai Sấm, La Thập, Gia Xá, bốn bản đại tập của bốn nhà làm một bộ phân làm sáu mươi quyển. Chẳng phải chỉ gom dòng nhỏ thêm cho biển cả mà cũng là tụ hạt cải, bồi đắp núi cao. Những hiệp Kinh này, văn nghĩa đều sáng rõ đầy đủ. Ấy đã là dấu tích để lại của những bậc tiên triết. Quí tôi liền nương thừa theo và lấy làm qui củ mà thấy có ba bản Kinh Kim Quang Minh: Đầu tiên, tại đời Lương có ngài Đàm Vô Sấm dịch làm bốn quyển, chỉ có mười tám phẩm. Tiếp đến đời Châu, ngài Xà Na Quật Đa dịch làm năm quyển, thành hai mươi phẩm. Sau đến đời Lương, ngài Chân Đế Tam Tạng, ở Kiến Khang dịch bốn phẩm: Tam thân phân biệt, Nghiệp chướng diệt, Đà la ni tối tịnh địa. Y Không mãn nguyện.v.v… tìm ra cái mất bổ túc phần trước phân làm hai mươi hai phẩm. Tuần tự ấy quả thật rằng, pháp sư Đàm Vô Sấm xưng là Kinh Kim Quang Minh, về thiên, phẩm có phần khuyết lậu. Thường lần theo văn mà đoán nghĩa thì cho là lời nói này có chứng cớ nhưng so sánh với các Kinh thì không ổn định. Khi thức, lúc ngủ, Bảo Quí tôi ôm mãi trong lòng và thường than, Kinh này bí mật thâm áo, làm sao phần sau tìm không thấy phẩm Chúc Lụy? Trước tuy ba người dịch mà nghi chưa cùng, mãi tưởng đến Phạm văn, nguyện rằng được gặp.
Đại Tùy ngự ở, Kinh mới liền đến, vua lệnh cho sở, ty tiếp nối nhau phiên dịch, đến năm Khai Hoàng thứ mười bảy, một thời nọ Pháp tịch khuyến thỉnh: Tam Tạng Pháp Sư nước Kiền Đà La của Bắc Thiên Trúc, đây là bậc chí đức, một lần nữa tìm hậu bản thì quả có phẩm Chúc Lụy, lại còn được phẩm Ngân Chủ Đà la ni. Vậy nên biết, nguồn pháp điển phân tán, phái riêng phân nhánh, thừa rót cuối dòng, lý khó toàn đủ. Nhờ Tam Tạng Pháp Sư Tuệ Tĩnh xung minh (sáng hơn người), học nghiệp ưu viễn (cao xa), Kinh luận trong ngoài nhiều chỗ bác thông, ở chùa Đại Hưng Thiện tại kinh đô, liền vì phiên dịch, đồng thời hợp với những phẩm ra trước làm thành hai mươi bốn phẩm, chép làm tám quyển. Học sĩ Phí Trường Phòng ở thành đô chấp bút, Sa môn thông Phạm văn Thích Ngạn Tông chùa Nhật Nghiêm hiệu đính. Ngọc báu đã đủ, mừng rỡ kính sâu, nguyện đèn pháp này truyền kiếp vĩnh viễn.