Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời, đức Thế Tôn ở trên đỉnh núi Linh Thứu. Bấy giờ, có một nghìn hai trăm năm mươi vị tì kheo lớn, trăm nghìn ức na dữu da bồ tát, trăm nghìn ức na dữu đa[1] Phạm Vương, Đế Thích, trời Hộ Thế và các chúng trời, rồng v.v… cung kính vây quanh đức Phật.
Đức Thế Tôn đang ngồi kết già[2] trên tòa sư tử Kiết tường bảo tạng. Lúc ấy, bồ tát lớn Thánh Quán Tự Tại rời chỗ ngồi, để y lộ vai phải, gối phải chạm đất, ngắm nhìn Thế Tôn, không hề chớp mắt, chắp tay cung kính, vui mừng phấn khởi, đầu mặt lễ dưới chân Phật và thưa:
Thưa Thế Tôn! Xin Ngài nói kinh Tiểu tự Bát nhã Ba lamật đa cho con nghe. Đồng thời, khiến cho chúng sinh nghe pháp ấy được phúc đức lớn; tất cả nghiệp chướng chắc chắn tiêu trừ và tương lai sẽ mau thành tựu Vô thượng bồ đề. Nếu có chúng sinh nào phát tâm chí thành, thụ trì, đọc tụng tụng chân ngôn này, cầu nguyện điều gì nhất định thành tựu việc ấy và không gặp các nạn ma.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với bồ tát lớn Thánh Quán Tự Tại: – Quí thay! Ông nói hay lắm! Quí thay! Quí thay! Này thiện nam tử! Ông vì các chúng sinh mà hết lòng như thế, ắt sẽ khiến họ được an vui, sống lâu.
Này Thiện nam tử! Ông hãy chí thành lắng nghe Ta nói kinh Tiểu tự Bát nhã Ba la mật đa. Nếu các chúng sinh nghe pháp ấy, nhất định sẽ được phúc đức lớn, tất cả nghiệp chướng đều tiêu trừ, mau chứng Vô thượng chính đẳng bồ đề. Nếu có chúng sinh nào phát tâm thụ trì chân ngôn này thì không có các việc ma và tất cả đều được thành tựu.
Bồ tát lớn Thánh Quán Tự Tại bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Hôm nay đức Thiện Thệ nói kinh là vì muốn làm cho chúng sinh được an lạc.
Khi ấy, đức Thế Tôn lập tức vào tam ma địa[3] Giải thoát nhất thiết chúng sinh, lại ra khỏi tam ma địa rồi từ sợi lông trắng giữa hai chặng mày phóng ra trăm nghìn ức na dữuđa luồng ánh sáng. Ánh sáng lớn ấy chiếu đến khắp tất cả cõi nước của các Đức Phật, vô lượng chúng sinh nhờ ánh sáng chiếu soi nên đều mau chứng được A nậu đa la tammiệu tam bồ đề; tất chúng sinh trong các địa ngục đều được an vui; các cõi nước của các Đức Phật đều có sáu thứ chấn động; lại có hương chiên đàn thượng diệu, hương trầm thủy, hương bột rải lên Đức Phật để cúng dường. Khi đức Thế Tôn nói kinh Bát nhã Ba la mật đa này, tất cả bồ tát lớn đều phát khởi tâm bình đẳng, phát khởi tâm thương xót, nhớ nghĩ làm lợi ích cho người khác, phát khởi tâm xa lìa tất cả tội chướng, phát khởi tâm làm các điều lợi ích, phát khởi tâm Bát nhã Ba la mật đa.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với bồ tát lớn Thánh Quán Tự Tại:
Các ông hãy lắng nghe, nay Ta sẽ nói cho các ông nghe chân ngôn Thánh Phật mẫu tiểu tự Bát nhã Ba la mật đa:
Nẵng mồ xá kiết dã, mẫu nẵng duệ, đát tha nga đa dã, lật hát đế, tam ma dược ngật tam một đà dã, đát nễ dã tha, mẫu ninh mẫu ninh, ma ha mẫu nẵng duệ, sa phạ hạ.
Đức Phật nói với bồ tát lớn Thánh Quán Tự Tại:
Tất cả các đức Phật đều nhờ chân ngôn Thánh Phật mẫu Tiểu Tự Bát nhã Ba la mật đa này mà đạt được A nậu đala tam miệu tam bồ đề. Ta cũng nhờ chân ngôn Thánh Phật mẫu tiểu tự Bát nhã Ba la mật đa này mà thành tựu Vô thượng chính đẳng bồ đề. Thuở xưa, có Đức Phật hiệu Thích ca Mâu ni Như Lai, Ta nhờ Đức Phật ấy mà nghe được pháp này. Đức Phật ấy nói: “Tất cả các Đức Phật trong ba đời đều nhờ pháp ấy mà thành Phật”.
Đức Phật nói với bồ tát lớn Thánh Quán Tự Tại:
Nay Ta sẽ thụ kí cho ông! Mai sau ông sẽ sinh vào cõi người thành Phật đạo, hiệu là Phổ Phóng Quang Minh Kiết Tường Bảo Phong Vương Như Lai, Ứng Chính Đẳng Giác. Ông nghe diệu pháp như thế phải nên thụ trì, đọc tụng, hoặc biên chép, hoặc bảo người biên chép, suy nghĩ hiểu rõ, giảng nói nghĩa ấy cho mọi người và tất cả chúng sinh nghe và chỉ bảo họ biên chép kinh ấy. Sau đó, ở trong nhà thụ trì đọc tụng, thì đời vị lai sẽ sớm thành Vô thượng chính đẳng bồ đề. Lúc ấy, tất cả đức Như Lai đồng ấn chứng cho các ông.
Hôm nay Ta sẽ nói lại Bát nhã Ba la mật đa đà la ni cho ông nghe:
Đát nễ dã tha, án, nhã dã nhã dã, bát nạp ma, tị át phạ minh, tát la tát lí chỉ, vĩ lí vĩ lí, vĩ la vĩ lí, xí lí xí lí, nễ phạ đa nỗ, bá la nan, một độ đa la nĩ, bố la nĩ, bố la dã, ba nga phạ đế, tát lật phạ thương, ma ma, bố la dã, tát lật phạ, tát đát phạ, nan tả, tát lật phạ yết lật ma, phạ la noa nan, vĩ thú đà dã, vĩ thú đà dã, một đà địa sắt xá, ninh nẵng, sa phạ ha.
Đức Phật nói với bồ tát lớn Thánh Quán Tự Tại:
Pháp đà la ni thắng diệu Bát nhã Ba la mật đa này là mẹ của tất các Đức Phật và bồ tát. Nếu chúng sinh nào nghe được pháp này thì tất cả tội chướng đều tiêu diệt. Công đức của pháp ấy, dù các Đức Phật, bồ tát nói trong trăm ức kiếp cũng không hết. Nếu người nào có thể thụ trì, đọc tụng đà la ni này thì được cùng vào mạn na la, được quán đỉnh[4]. Nếu có thụ trì tất cả chân ngôn thì đều thành tựu.
Bồ tát Thánh Quán Tự Tại bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Vì sao Ngài nói lại đà la ni Bát nhã Ba lamật đa này?
Đức Thế Tôn nói:
Vì Ta thương xót tất cả chúng sinh ít phương tiện khéo léo, lười biếng, nên nói đà la ni Bát nhã Ba la mật đa này để chúng sinh thụ trì, đọc tụng, hoặc tự biên chép, hoặc bảo người biên chép. Tất cả chúng sinh ấy mau chứng Vô thượng bồ đề. Đúng thế! Đúng thế! Đức Thế Tôn vì vậy mà khéo nói đà la ni Bát nhã Ba la mật đa.
Khi ấy, bồ tát lớn Thánh Quán Tự Tại lại bạch Phật: – Bạch Thế Tôn! Pháp này thật chưa từng có. Bạch Thế Tôn! Pháp này thật chưa từng có. Thiện Thệ Thế Tôn đại từ vì muốn cứu giúp tất cả chúng sinh ít phương tiện khéo léo, lười biếng và vì muốn cho chúng được lợi ích, an vui, nên nói diệu pháp này.
Khi đức Thế Tôn nói kinh này xong, các thanh văn lớn, các bồ tát lớn, tất cả thế gian trời, người, a tô la, ngạn đạtphạ v.v… nghe Đức Phật nói pháp rồi, tất cả đều vui mừng, tin nhận, làm theo và đỉnh lễ Phật rồi ra về. *
Chú thích:
[1] Na dữu đa 那庾多 (S: Nayuta): còn gọi là Na du đa,
Na do đa, Na thuật, tên số đếm, tương đương với 1 ức. Một ức có ba cấp: 10 vạn, 100 vạn, 1000 vạn. Vì vậy xác định số đến của na do tha cũng không giống nhau. [2] Kiết già (S: Nyaṣīdat paryaṅkam ābhujya): Kiết già phu tọa: tư thế ngồi xếp bằng, hai chân tréo, hai bàn chân ngửa ra đặt trên hai đùi. Đây là cách ngồi an ổn nhất. Có hai loại: Hàng ma tọa và Cát tường tọa.
Tam ma địa 三摩地 (S: Samādhi): tâm chuyên chú vào cảnh, không hôn trầm, điệu cử, một trong bảy mươi lăm pháp của Câu xá, một trong 100 pháp của Duy thức.
Quán đỉnh 灌頂 (S: Abhiṣecanī): nghi thức dùng nước rưới lên đầu ở Ấn Độ thời xưa. Khi vua lên ngôi và lập thái tử, quốc sư dùng nước bốn biển rưới lên đỉnh để chúc phúc.