Kinh Pháp Hoa dạy: “Chư Phật Thế Tôn do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời”. Đại sự nhân duyên vừa nói ấy không ngoài muốn làm cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật. Chúng sanh vốn sẵn đủ tri kiến của Phật, hiềm rằng phiền não Hoặc nghiệp chướng lấp diệu minh, nếu không được chư Phật khơi gợi, dẫn dắt, chúng sanh sẽ không có cách nào khai thị ngộ nhập được! Do vậy, đức Thích Ca Thế Tôn lúc mới thành Chánh Giác đã than rằng: “Lạ thay! Hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ trí huệ, đức tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước, chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí liền được hiện tiền”. Do vậy, chư Phật Thế Tôn hưng khởi lòng Từ, vận dụng lòng Bi, xuất hiện trong thế gian, nói đủ mọi pháp, không gì chẳng nhằm làm cho chúng sanh phá trừ vọng tưởng, chấp trước, hoàn toàn trở thành trí huệ, đức tướng, đều cùng khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật. Nhưng do chúng sanh căn tánh thiên sai vạn biệt, trọn đủ tám vạn bốn ngàn phiền não, đức Như Lai thương xót, xét soi căn cơ để lập giáo, nói rộng rãi tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị.
Trong số ấy, tìm lấy một pháp viên đốn, siêu diệu, thẳng chóng, rốt ráo, thỏa đáng, thực hiện dễ thành công, dùng sức ít mà hiệu quả nhanh chóng, thích hợp khắp ba căn, gồm trọn các pháp thì chỉ có cách nương theo các vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, các đại tôn giả Ca Diếp, A Nan, Mã Minh, Long Thọ, và lịch đại tổ sư cõi này là Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh. [Các vị ấy] đã sớm đặc biệt chọn lấy pháp môn Tịnh Độ trong Tu Đa La Giáo, [bởi lẽ pháp này] là thuốc A Già Đà trị chung vạn bệnh, dạy cho khắp mọi chúng sanh đều cùng nên tu tập. Vạn người tu, vạn người đến, đều cùng được khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật hòng thỏa thích bổn hoài xuất thế của đức Phật. Pháp môn tối thượng thù thắng siêu tuyệt này từ lúc được khai sáng tại núi Khuông Lô vào thời Đông Tấn, đời nào cũng có cao nhân hoằng dương rạng ngời. Điều này có thể thấy cặn kẽ trong sách vở, chẳng cần phải rườm lời.
Hơn một trăm năm gần đây, pháp vận cũng nguy ngập theo vận đời, đến nỗi đại pháp như vậy cũng ít có ai đề xướng. May mắn là lúc thoi thóp tột cùng lại sống dậy, được vị Thân Giáo Sư của chúng ta là Ấn Công Lão Nhân thừa nguyện tái lai, đặc biệt hoằng dương đạo này. Đạo đức, văn chương của lão nhân như mặt trời, mặt trăng giữa không trung, như sông rạch chảy khắp cõi đất. Văn Sao Chánh Biên, Tục Biên được lưu thông khắp cõi. Không những hàng đệ tử Phật đua nhau ngưỡng mộ, mà cũng có lắm kẻ chê bai Phật pháp mà đọc văn Ngài, hoặc nghe nói tới đức hạnh của Ngài, lòng cũng chẳng khỏi kính phục. Đức tót vời cảm hóa con người sâu đậm như thế, nhằm đúng thời Mạt Pháp này, thật hiếm người sánh bằng! Nào ngờ do nghiệp cảm của chúng sanh, pháp tràng chợt gãy, mùa Đông năm Canh Thìn (1940), đại sư về Tây, thoáng chốc đã tròn ba năm. Trong ba năm ấy, bồi hồi nghĩ tưởng, hối hận sâu xa lúc ban đầu mình đã xem thường để lỡ, vì sao vậy? Do lúc đại sư tại thế, trí huệ vô ngại, đức hạnh, danh vọng vòi vọi. Dẫu cho ma vương, ngoại đạo tung hoành, chúng sanh ngu muội, không phân biệt được đúng – sai, chỉ cần đại sư ban một lời, quá nửa đã đột nhiên giác ngộ, tâm vui vẻ, chân thành khâm phục. Dẫu lũ quyến thuộc ma cũng chẳng thể hoành hành oai thế được!
Nay thì tiếng sư tử hống chẳng còn nghe nữa, huệ nhật ẩn bóng, cố nhiên những kẻ viết lách phô phang phá hoại di giáo của đại sư gây hại rất nặng, nhưng vẫn còn có những người có đủ con mắt giống như bảy mươi vị [đệ tử] thấu hiểu Trọng Ni (Khổng Tử) chẳng thể phá hoại được. Chúng ta cũng chỉ đành ai nấy tận hết sức mình tu hành là được rồi, hơi đâu để so đo với bọn họ. Mặc cho bọn họ “chữ Phật ta chẳng thích nghe”, chúng ta chỉ có A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, chỉ niệm đức Phật, chỉ cầu Tịnh Độ mà thôi! Nhưng lại có chuyện khiến cho con người đau lòng buốt óc nhất, khôn ngăn lương tâm xao xuyến, dẫu biết rõ là nhọc sức vô bổ, nhưng chẳng thể không nói đến, không gì bằng chuyện những kẻ dùng đến bút gỗ, mâm cát (cầu cơ) để tưởng chừng như ca ngợi, ngưỡng mộ đại sư, nhưng [thật ra là] vu báng, khinh miệt Ngài!
Nay tôi chẳng phân biệt hết thảy những vị công khai phản đối, hoặc vu báng ngấm ngầm, hoặc thật sự hộ trì, xin hãy đều tâm bình khí hòa thương lượng. Đạo đức, văn chương của đại sư thuở sinh tiền cao tột như thế nào, ta hãy khoan bàn tới. Chỉ căn cứ vào chuyện đại sư biết trước lúc mất, tuổi đã tám mươi, vẫn có thể từ chõng nằm tự mình đi đến ghế tựa, ngồi ngay ngắn hướng về Tây, các căn vui vẻ, chánh niệm phân minh, an tường về Tây giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Sau khi trà duy (hỏa thiêu), linh cốt trắng sạch, có những miếng màu như vàng ròng hoặc Phỉ Thúy, cũng như xá lợi thật lắm, linh dị thật nhiều, lắm người thấy nghe. Sự ứng hiện tốt lành như thế, hạng Tăng nhân tầm thường có thể đạt được hay chăng?
Đối với học vấn, phẩm hạnh của đại sư, xin các vị cứ dựa theo sự thật để phê bình, rốt cuộc có ai chê trách Ngài chẳng hiểu giáo lý, tu mù luyện đui hay chăng? Trộm sợ rằng, bất luận là ai nếu dám thốt ra lời ấy, ắt sẽ bị ngàn vạn người lớn tiếng thóa mạ, quở là kẻ chẳng biết tự lượng, ăn nói bừa bãi[1], hủy báng Tam Bảo, tội chẳng thể dung tha, trốn tránh được!
Những người thật sự hiểu biết đại sư trong thế gian cũng chẳng cần phải đề cao Ngài ra sao, nói Ngài có thần thông tiên tri này nọ, là bậc Bồ Tát nào đó tái lai v.v… (Chúng ta được dự vào hàng đệ tử, đối với mật hạnh tự ẩn giấu chẳng lộ của đại sư, chưa thấy chứng cứ thật sự nào. Dẫu có chuyện ấy đi nữa, cũng chẳng nên tự phô phang), nhưng nhận biết đại sư là bậc hạnh giải siêu việt, trác tuyệt, thâm nhập kinh tạng, khéo léo khế hợp Phật tâm, hạnh làm khuôn mẫu cho đời, lời lẽ làm pháp tắc cho cõi thế, nhất cử, nhất động đều hữu ích cho pháp môn, đều nêu khuôn phép cho hàng hậu học.
Bình luận như thế, tôi sợ trộm rằng bất luận ai nghe tới (trừ hạng ma vương chuyên cầu danh văn lợi dưỡng, ghen ghét, chướng ngại, ôm lòng hoại loạn pháp môn) ắt sẽ đều cùng gật đầu. Thế mà nhiều người vẫn còn cho rằng chưa thể khen ngợi đại sư xứng với sự thật, ngay cả hạng giả vờ xưng tụng, ngưỡng mộ cũng không thể phủ nhận. Hạnh giải của Ngài thuở đương thời, tướng lành lúc lâm chung, thiết thực như vậy đó, chắc chắn cao đăng thượng phẩm, chẳng còn phải ngờ vực dị nghị mảy may chi nữa! Đã lên Thượng Phẩm cõi Tây Phương thì chứng Vô Sanh Nhẫn, viên mãn Phật quả chỉ là vấn đề thời gian, có thể nói Ngài đã hoàn tất nhiệm vụ học Phật, đương nhiên chẳng còn có mảy may thiếu sót, tiếc nuối gì!
Kẻ hơi biết giáo lý hãy nên thấu hiểu sâu xa. Có lắm kẻ cầu cơ, thường mạo nhận là được đại sư giáng đàn, tự lược thuật những chuyện thật lúc sinh tiền (tợ hồ là đúng, nhưng thật ra là sai), tự nói chính mình đã sanh về Tây Phương, lại còn buồn bã hối hận thoạt đầu chẳng tin lời cơ bút. Lời lẽ vu hãm oan uổng ấy, người hơi hiểu biết Phật pháp nghe xong liền đau lòng, buốt óc, hoặc đến nỗi phun cả cơm ra! Vì sao vậy? Xin hỏi là thật hay giả, thì những người cùng tự xưng là đệ tử Phật hãy đều cùng nhau bình tâm hòa khí để đáp lời. Trong thế gian, có học thuyết, lý lẽ nào cao siêu, huyền diệu hơn Tam Tạng gồm mười hai thể loại do kim khẩu [của đức Thế Tôn] giảng ra hay chăng? Tôi trộm sợ rằng ngoài những kẻ công khai phản đối Phật pháp ra, chẳng có một ai dám đáp một chữ Có!
Như vậy thì kinh điển gồm mươi hai thể loại trong Tam Tạng của đức Phật ta chính là học thuyết, giáo lý tối cao vô thượng, được thế giới công nhận đã lâu; đại sư lại thông hiểu rộng khắp Tam Tạng, khế hợp Phật tâm khéo léo, do cầu lòng Nhân mà đạt được lòng Nhân, đích xác đã sanh về Tây Phương, tấn tu Bồ Đề như trong phần trên đã thuật. Thế mà lũ bút gỗ mâm cát vẫn lắm phen vu cáo đại sư, bảo Ngài thốt lời hối hận vì trước kia đã chẳng tin theo lời cơ bút. Đúng là còn dữ dằn, tai hại hơn những kẻ công khai phản đối, phá hoại rất nhiều!
Đối với lũ thanh đồng[2] phò cơ ấy chuyên bám vào bút gỗ, mâm cát để kiếm ăn, một bề chẳng dính líu gì tới đại sư cho mấy thì đều đáng bỏ qua, chẳng buồn tính toán tới. Nhưng có lắm đệ tử đã từng quy y với đại sư, vẫn khoác lấy danh xưng là kẻ tin tưởng, ngưỡng mộ đại sư, mà vẫn tin tưởng những lời lẽ vu cáo ấy, coi như là khuôn vàng thước ngọc do chính đại sư tự thuật. Hạng người ấy càng đáng gọi là mất trí điên cuồng, kém cỏi đến cùng cực! Vì sao vậy? Bởi chính họ tà – chánh chẳng phân, thối – thơm chẳng biết, vu báng đại sư cũng hồ đồ giống hệt như bọn [cầu cơ] kia!
Kiểu ăn nói bịa đặt trong đàn cầu cơ như vậy chẳng những khinh rẻ, nhục mạ đại sư, mà còn khinh rẻ, nhục mạ toàn bộ Phật giáo! Bởi lẽ, đức Phật giảng kinh nhằm dạy con người cầu sanh Tây Phương, cầu chứng Phật quả. Những điều đại sư dạy người khác cũng là cầu sanh Tây Phương, chứng Phật quả. Đương nhiên, điều đại sư tự hành cũng là cầu sanh Tây Phương, chứng Phật quả. Nay lời bịa đặt trong đàn cầu cơ lại bảo khi chưa sanh về Tây Phương, đại sư chẳng biết Tịnh Độ ở nơi đâu, tức là những gì đại sư dạy dỗ người khác đều là nói dối! Như vậy là đã khinh miệt, nhục mạ đại sư đến mức độ nào? Lại còn nói đại sư đang sống trong cõi Khí Thiên do bọn họ bịa ra (Danh xưng Khí Thiên chẳng những trong Phật pháp không có, ngay cả sách Nho cũng chẳng có. Chỉ vì bọn họ uống nhiều mực quá đến nỗi toàn thân hồ đồ, chính mình không có mắt để biện định đen – trắng trong đàn cơ nên mới nói nhăng, nói cuội như vậy). Lại còn nói nhăng, nói càn đại sư vẫn chưa thể đạt tới Lý Thiên!
Xét ra, giáo lý thông thường của đức Phật đã dạy đều nhằm làm cho con người thoát khỏi tam giới, tu thánh quả. Nói tới Tam Giới thì một là Dục Giới, tức sáu tầng trời thuộc cõi Dục cùng nhân gian và bốn ác đạo; hai là mười tám tầng trời thuộc cõi Sắc; ba là bốn tầng trời thuộc cõi Vô Sắc. Dục giới, Sắc Giới, Vô Sắc giới được gọi chung là tam giới, đều cùng thuộc biển khổ sanh tử luân hồi. Thoát khỏi tam giới thì mới chứng thánh quả. Nay bọn họ gọi quàng là “Khí Thiên, Lý Thiên”, lại lầm lạc bảo Khí Thiên là quả vị tột bậc, chẳng những khinh miệt, nhục mạ đại sư mà còn khinh miệt, nhục mạ hết thảy Phật, Bồ Tát!
Họ chẳng biết trong cổ thư, một chữ Lý (理) chỉ có nghĩa là trị lý, tu lý (sửa chữa, giồi mài), vốn từ ý nghĩa “trị ngọc” (mài giũa ngọc) được mở rộng ra. Sau này, nó lại được mở rộng thành đạo lý, đến khi ngài Thanh Lương chú giải kinh Hoa Nghiêm, mới lập ra danh từ Lý pháp giới. Tống Nho ăn trộm nghĩa ấy, lập ra Lý Học, biến chính mình trở thành trò đùa. Bởi lẽ, từ ngữ “Lý pháp giới” chỉ tự thể của các pháp, chính là thật cảnh. Tống Nho không hiểu được cái vốn sẵn chân thật, cứ hiểu theo mặt chữ, nên đến nỗi suốt một ngàn năm qua, trong môn hộ xung đột, xúm nhau tranh cãi chẳng ngớt. Như chư thiên vốn thuộc vào hàng chúng sanh, được sanh lên cõi trời chính là do thiện nghiệp và sức Thiền Định. Nay bọn họ ghép bừa chữ Lý với chữ Thiên, bịa ra danh xưng Lý Thiên, đúng là cứ tưởng khai phá một bầu trời mới lạ, nào ngờ đáng gọi là “con vẹt học nói tiếng người”, trọn chẳng biết chuyện của con người, nực cười quá đỗi!
Đại sư tri kiến siêu việt, trác tuyệt, đời này hiếm có mấy ai sánh bằng, cố nhiên chẳng [thốt lời] tầm ruồng, thừa thãi. Đối với chuyện cầu cơ, trong Văn Sao Chánh Biên lẫn Tục Biên, đại sư đều có lời răn nhắc, cảnh tỉnh. Chẳng hạn như:
– Chuyện cầu cơ đều do linh quỷ nương theo tri thức của kẻ phò cơ để xoay chuyển cơ bút, thậm chí còn có những kẻ phò cơ tự bịa đặt lời giáng cơ! Tuy chẳng phải là hoàn toàn không có bậc chân tiên giáng đàn, nhưng chỉ là trong trăm ngàn lần mới ngẫu nhiên có một lần giáng đàn mà thôi! Còn những kẻ xưng là Phật, Bồ Tát đều toàn là hạng giả mạo. Nhưng người phò cơ phần nhiều khuyên người khác làm lành, tuy chẳng chân thật, nhưng do họ đã khoác cái danh làm lành, so với những kẻ công khai làm ác, đương nhiên cao hơn một bậc. Lại còn có thể chứng minh những chuyện họa phước, quỷ thần v.v… khiến cho con người có cái để e sợ; do vậy, chúng ta cũng chẳng cần phải cố ý công kích.
Hiềm rằng những lời giáng cơ, chẳng những không phù hợp Phật pháp (Kẻ hơi biết Phật pháp phò cơ thì lời giáng cơ thường nói tới những thứ “Phật pháp” nông cạn hoặc gần giống như Phật pháp. Kẻ chẳng biết gì về Phật pháp hầu cơ thì toàn là nói nhăng, nói cuội!) Rốt cuộc phần nhiều là coi mắt cá như minh châu, hoại loạn Phật pháp, gây hại quá lớn! (Người thật sự hiểu biết Phật pháp quyết chẳng phụ họa chuyện cầu cơ, đức Phật chế định Tam Quy, tức là đã bảo ban, răn dạy phân minh, tường tận, thiết thực, huống hồ còn có những nghĩa lý sâu xa). Vì thế, phàm là đệ tử thật sự của đức Phật, chớ nên tùy tiện tán đồng. Những lời trên đây dành để nói với hai người các ông, chớ nên nói công khai, sợ kẻ vô tri cho là tôi bịa đặt đồn thổi để hủy báng người khác thì chẳng những không có lợi ích mà còn có hại nữa!”
Lời dạy này có thể thấy trong phần Di Giáo đăng trong Hoằng Hóa Nguyệt San số 24. Lại đọc trong Văn Sao Tục Biên, thấy có đoạn:
– Cầu cơ là do tác dụng của linh quỷ, chúng nó nói ta là vị Phật này, hay vị Bồ Tát nọ, vị tiên kia, đều là mạo danh. Chân tiên có khi giáng cơ, nhưng sợ rằng trong trăm ngàn lần chưa được một lần, huống là Phật, Bồ Tát ư? Dùng cầu cơ để đề xướng Phật pháp tuy có lợi ích nhỏ nhoi, nhưng đã sai từ căn bản. Người thật sự học Phật quyết chẳng cậy vào đấy để đề xướng Phật pháp. Vì sao vậy? Do nó là tác dụng của quỷ thần. Nếu có linh quỷ thông minh thì vẫn chưa đến nỗi hỏng chuyện; chứ nếu lỡ một con quỷ hồ đồ giáng đàn, ắt sẽ đến nỗi hỏng đại sự! Người ta do cầu cơ bị lỡ làng đại sự sẽ bảo Phật pháp sai lầm! Kiểu đề xướng ấy chính là đầu mối phá diệt Phật pháp vậy!”
Ngài còn dạy: “Vào đời Đạo Quang nhà Thanh trước kia, có một vị Cử Nhân ở Nam Xương, truyền cho một môn nhân cầu cơ xem bệnh ở tỉnh thành, rất linh nghiệm. Nhằm lúc mẹ quan Tuần Phủ bị bệnh, thuốc men vô hiệu, có người thưa ông X… cầu cơ xem bệnh rất linh. Do vậy, quan mời đến thăm bệnh, kê toa, bà cụ uống vào chết tươi! Quan vội sai thầy lang đọc toa thuốc, thì ra trong ấy có những vị thuốc công phạt nhau. Tra khảo, người ấy thưa: ‘Đấy là do thầy tôi dạy’, do vậy quan bắt thường thầy anh ta, quở: “Ngươi lừa dối hại người đời’, sai giết chết ông thầy. Ông cho rằng không cầu cơ sẽ thiếu pháp duyên lay động tâm người lớn lao, chẳng biết nỗi họa cầu cơ lớn tầy trời, công đức khuyên người [của cơ bút] chẳng thể bù đắp được! Bậc chánh nhân quân tử, quyết chẳng dự vào đàn tràng ấy v.v…”
Những lời cảnh tỉnh, răn dạy như thế, xin hãy đọc từ thư gởi cho ông Trần Tích Châu và thư trả lời cư sĩ X… ở Vĩnh Gia trong Văn Sao Chánh Biên cũng như thư trả lời ông Giang Cảnh Xuân trong Văn Sao Tục Biên, những lời dạy trong các bức thư ấy rất tường tận, thiết thực! Đại sư ngăn ngừa bịa đặt, cả đời cẩn thận, cho ấn loát công khai như thế tức là đã cân nhắc kỹ lưỡng. Xin hãy đọc lời Phi Lộ trong tờ nguyệt san số 24, Ngài đã răn chớ nên phát biểu công khai, đủ chứng tỏ những gì chưa được Ngài công bố, chỉ nói riêng tư với người khác, càng hết sức răn nhắc, cảnh tỉnh thống thiết hơn nữa, vẫn chưa biết là bao nhiêu (Năm Dân Quốc 28, 29, ông X… do cái tâm say sưa, đã đem lời cơ bút bảo Sâm lần lượt thông cáo cho các nơi. Những lời xấu ác sâu đậm, gây đau lòng cùng cực ấy vẫn còn rất nhiều).
Thuở sinh tiền, đại sư có thái độ như vậy đối với cầu cơ, kinh sách vẫn còn đấy, mọi người đều biết, thế mà [bọn cầu cơ] vẫn dùng lời lẽ “hối hận vì lúc sống chẳng tin tưởng cầu cơ” để vu báng đại sư! Há chẳng phải đã bảo đại sư sống hồ đồ suốt tám mươi năm trên cõi đời ư? Đến khi sanh về Tây Phương mới giác ngộ. Như vậy là đại sư kém rất xa bọn đệ tử một mực tin tưởng cầu cơ như các ngươi rồi! Xin hỏi kiểu vu báng oan uổng ấy đã chèn ép đại sư đến mức nào? Thế mà bọn họ vẫn dương dương đắc ý, tự khoe ta là tín đồ của đại sư, tôn kính, sùng phụng đại sư. Tri kiến kiểu đó, tôi chẳng biết là đã hồ đồ đến bực nào, hay là có dụng tâm chi khác vậy?
Những lời dông dài, phiền phức trên đây đều là nói về đàn cầu cơ. Đối với mỗi một đàn cầu cơ linh thiêng nào, đại sư cũng đều thống trách chúng ta chớ nên phụ họa. Ngay như Sâm cũng thường nói: “Phàm ai là đệ tử Phật mà vẫn mê tín lời cơ bút thì tuy là do kiến địa chẳng chân thật nhưng cũng không có ai [trong số ấy] chẳng tin vào thứ ma túy mang tiếng linh nghiệm đó! Họ chẳng biết chuyện linh thiêng trong thế gian thật nhiều, có gì đáng coi là kỳ lạ đâu!” Sâm sống sáu mươi năm trên đời, trải qua những chuyện linh dị dẫu có sạch trúc cũng không thể chép hết được!
Năm mười bảy tuổi, Sâm bệnh nặng sắp chết, lạy ma một lạy, lập tức có linh nghiệm đặc biệt, trở thành một người khỏe mạnh, chắc là tất cả những chuyện linh dị trên thế gian đều khó thể nhanh chóng hơn chuyện này được! Xin hãy đọc trong Hoằng Hóa nguyệt san số 23 có bài viết vụng về của tôi bàn về quả báo rõ ràng của việc sát sanh và phóng sanh thì sẽ biết đại khái. Năm lên mười tám, do bị hoàn cảnh xấu hèn tiêm nhiễm, mê cờ bạc, chơi bài Hoa Hội[3], thường tới những chỗ ô uế khôn kham để van vái quỷ thần. Thường là sáng hôm sau chơi Hoa Hội thì tối hôm nay liền cầu được tên con bài ấy, tôi nghĩ sự linh dị cũng chẳng thua hết thảy đàn cầu cơ. Tới năm hai mươi tuổi, sau khi ăn chay, theo học với vị sư phụ Không Kiến ngoại đạo là Tế Công; ông ta cùng sư huynh đều là hạng giỏi bói toán. Do vậy, Sâm cũng biết đại lược đôi chút; vì thế, bèn đoán thử họa phước tương lai, tiên đoán linh nghiệm càng khó thể viết trọn! Những chuyện quỷ thần thông linh như vậy kể sao cho xiết!
Nhưng những sự linh dị ấy chẳng những hoàn toàn vô ích cho thân tâm tánh mạng mà còn gây chướng ngại cho đại sự sanh tử (Giới luật của đức Phật ngăn cấm rõ ràng). Ngay cả chuyện con người trong thế gian muốn cầu may tránh dữ cũng thường gặp cảnh trái ngược, huống hồ đàn cầu cơ các nơi trọn chẳng phải là linh dị không sai xuyển mảy may nào! Nếu các vị không tin, tôi sẽ lược thuật chứng cứ như sau:
Ngày mồng Một tháng Mười âm lịch năm nay, có hai cư sĩ đến thăm, kể lại sự khảo nghiệm họ đã từng trải qua. Trong pháp hội các nơi, họ thường nghe nhiều người tán dương đàn cầu cơ X… nọ lừng lẫy một thời, linh dị phi thường. Lòng họ vẫn nửa tin nửa ngờ, tự nhủ: “Nếu thật sự linh thiêng ta sẽ tin tưởng, sùng phụng, đặc biệt hoằng dương” bèn đến đàn ấy xem thử ra sao, trong tâm ngầm khấn rằng: “Ngài X… (chỉ vị chúa đàn cầu cơ đặc sắc nhất ấy) đã dự vào dòng thánh, ắt có Tam Minh, Lục Thông thì Tha Tâm Thông cố nhiên chẳng cần phải nói nữa. Đệ tử là… chẳng cầu chuyện gì khác, chỉ mong sao khi con chí thành đảnh lễ ba lạy xong, xin bút gỗ của Ngài sẽ ngưng lại bất động, liền có thể chứng tỏ ngài có Tha Tâm đạo nhãn, đệ tử sẽ trọn hết lòng thành sùng phụng, tận lực tuyên dương”. Khấn thầm rồi lễ đủ ba lạy xong, bút gỗ hoàn toàn chẳng ngưng chạy, họ liền chẳng bị đàn tràng ấy mê hoặc.
Chỉ thấy một vị Tăng thông minh sáng láng tôi từng quen biết mà cũng mê tít đàn cầu cơ ấy. Ông X… nọ nghĩ vị tăng ấy tài năng xuất sắc bất phàm, ai nấy đều mong vị ấy sẽ hoằng dương pháp hóa to lớn trong tương lai; nếu lọt vào tà ma, ngoại đạo, vị tăng ấy sẽ chuyên cậy vào bút gỗ để đề cao giá trị bản thân, dù có khả năng viết lách, thuyết giảng, đầy đủ thế trí biện thông, rốt cuộc cũng thuộc về một trong tám nạn, gây chướng ngại to lớn cho việc học Phật, bèn chẳng tiếc sức hiện thân thuyết pháp nhằm lôi kéo ông ta.
Phương cách như thế nào? Do vị cư sĩ ấy đã mồ côi từ nhỏ, nhưng vị Tăng ấy không biết, cư sĩ bèn giả vờ viết một bức thư nói: Mẹ ông ta hiện thời đã sáu mươi bảy tuổi, vốn thường khỏe mạnh, nay nhằm ngày kia tháng nọ, mắc phải bệnh nọ, dây dưa lâu ngày, thuốc men vô hiệu. Bất đắc dĩ, kính xin vị Tăng ấy hãy chuyển lời cầu chẩn trị tới đàn cầu cơ ấy, xem thử tuổi thọ của bà cụ như thế nào, cầu cho cụ chóng lành bệnh có được hay không?
Vị Tăng ấy liền xin giùm ông ta, rồi chuyển lời phủ dụ từ đàn cầu cơ ấy như sau: “Mẹ ngươi tuổi gần bảy mươi, tuổi thọ đến mức ấy kể như đã cao. Bệnh tình trước mắt như vậy, thật sự chẳng đáng ngại. Nay ta ban cho một toa thuốc, hãy cho bà cụ uống trước, sẽ dần dần khỏi bệnh. Tới mười một giờ đêm ngày ấy, ta là X… (chỉ vị chúa đàn ấy) sẽ đích thân tự phóng quang tiếp độ, cụ sẽ liền bệnh hết, thân yên v.v…” Vị cư sĩ ấy đọc lời luận đoán, ra vẻ cảm kích, đợi tới ngày chúa đàn hẹn sẽ phóng quang dẫn dắt, lại tới gặp vị Tăng ấy, tán dương sự linh dị của đàn X… như sau: “Mẹ tôi đã lành bệnh quá nửa, muốn cầu được lành bệnh hoàn toàn”.
Vị chúa đàn X… ấy nghe tin, lại ban lời dụ rằng: “Sau khi ta là X… phóng quang dẫn dắt, bệnh mẹ ngươi đã bị trừ sạch, nay còn khó chịu đôi chút, chẳng có mảy may vấn đề gì đâu! Lại đến mười một giờ tối bữa kia, ta sẽ trị lần nữa, sẽ liền được khỏe mạnh hoàn toàn v.v…” Qua lại một lần nữa, sau khi vị cư sĩ ấy tiếp nhận lời phủ dụ lần thứ ba từ đàn X… xong mới kể thực tình là mẹ mình đã mất nhiều năm cho vị Tăng ấy nghe, cũng như đưa ba lời dụ từ đàn cầu cơ cho vị Tăng ấy xem, khiến cho vị Tăng ấy ngượng rát mặt. Nghe nói hiện thời vị Tăng ấy đã giác ngộ, thoát khỏi cái kén của lũ ma rồi. Ba lời dụ từ đàn cầu cơ ấy vị cư sĩ Y… vẫn còn giữ, đủ chứng tỏ sự khôi hài của những lời giáng cơ!
Năm Dân Quốc 19 (1930), cuộc đại chiến gây thành nội loạn ở tỉnh Sơn Đông nước ta, nghe nói là do vị tai to mặt lớn X… nọ mê tín thần thông của gã ma Y… vội vàng đứng lên lật đổ chánh quyền Trung Ương hòng hai người đó sẽ chia nhau làm Chánh Phó Tổng Thống. Vị tai to mặt lớn X… nọ dục vọng quá mạnh, mê tín lời ma đến nỗi mắc họa ấy. Chuyện này do chính cư sĩ Khuất Văn Lục đích thân kể lại cho Ấn Công lão nhân nghe. Lúc ấy, ông Khuất cũng là một người họ hàng của ông X…. Sau khi thất bại, gã ma Y… trốn xa, thay hình đổi dạng nhiều phen.
Năm Dân Quốc 25 (1936), ở Việt Đông (Quảng Đông), một viên chức có thế lực lớn tên X… chống đối chánh quyền Trung Ương, cũng do bút gỗ, mâm cát xúi giục nổi dậy. Những chuyện như thế đã đăng tải trên báo chí chắc là nhiều người đã mắt thấy tai nghe rất thường!
Dựa trên ba chuyện này, đủ chứng tỏ rằng kẻ hiếu kỳ thích đồn đại chuyện linh dị sẽ xui nhiều, hên ít. Hiềm rằng chúng sanh tâm hiếu kỳ nặng nề, thấy chánh đạo thông thường, chân thực, thỏa đáng, sát sao, bèn khinh dễ, coi nhẹ, lắc đầu không màng tới; nghe lời xảo trá đồn chuyện hiếm có, lạ lùng, quái dị, bèn kính vâng như chiếu chỉ, đua nhau xúm theo. Không có gì khác cả, chúng ta do đồng nghiệp cảm vời, chẳng thể làm sao được. Đại sư Ngẫu Ích còn phải cảm khái, thốt lời than thở “một ngày mua được ngàn gánh giả, ngàn năm khó mua được một gánh thật”, huống chi bọn ta sanh nhằm thời này, ở trong đời này, làm sao có thể lôi kéo hết các đồng luân cùng ra khỏi hang tối lên được cây cao ư?
Hãy nên biết rằng những lời lụn vụn, dông dài, phiền phức thiếu trí huệ [của Sâm] vốn chẳng phải là cố ý công kích. Đối với các đàn cầu cơ và những đoàn thể từ thiện do các ngoại đạo lập ra, Sâm luôn giữ tông chỉ “không phá hoại mà cũng không phụ họa”; nói chung là giống như lời đại sư đã dạy trong Văn Sao Chánh Biên và Tục Biên. Không riêng gì một mình Đức Sâm như thế, hễ ai là bậc đại đức thật sự hiểu biết, phần lớn đều không có lòng riêng tư khác lạ, lẽ nào lại mang tâm hạnh cố ý công kích? Ở đây tôi lại phải rườm lời như thế quả thật là vì các đàn cầu cơ ở nhiều nơi hay bịa chuyện đại sư giáng lâm, đều bảo là Ngài hối hận thuở trước đã chẳng tin cầu cơ! Đủ các lẽ bịa đặt, quả thật đã vu báng, miệt thị đại sư quá đáng!
Sâm theo hầu đại sư hai mươi năm, tuy chưa thể thâm nhập được chỗ sâu kín, nhưng đã biết được đại khái hạnh nghiệp cả đời đại sư, lại chịu ơn đại sư từ bi che chở sâu xa; xét lẽ báo ân, tính kế hộ pháp, đều chẳng thể mặc kệ cho kẻ khác vu báng, chẳng thanh minh mảy may nào! Ví như kẻ làm con nghe kẻ khác vu báng, miệt thị cha mẹ, chẳng có ai không tranh biện. Nếu các vị cầu cơ ở các nơi giữ yên môn đình của chính mình, chẳng muốn hoại loạn Phật pháp, chẳng toan dính dấp đến đại sư của chúng ta thì Sâm một mực chẳng ưa tranh cãi, lẽ nào lại khổ sở đa sự như vậy?
Hơn nữa, để phòng ngừa bịa đặt, đại sư mong đệ tử Phật hiểu rõ “trong một trăm đàn cầu cơ, có đến chín mươi chín đàn là do quỷ thần chủ trì, mạo danh Phật, tiên giáng lâm, nguy hiểm quá sức”, bèn cho ấn hành, lưu thông sách Tây Phương Xác Chỉ. Trong sách ấy qua những lời giáng cơ, [Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đã] giảng rõ lẽ lợi hại, căn dặn mọi người đừng tin vào cơ bút, những mong ai nấy đều biết tự thương thân. Nào ngờ những kẻ mê tít thò lò đàn cơ lại ngược ngạo viện dẫn hành động ấy của đại sư như một tấm bùa hộ thân! Trầm luân, mê muội khó cứu đến tột bậc như thế, quả thật cũng khiến cho người ta phải thở dài sườn sượt!
Vì các lẽ ấy, nhằm hộ trì chánh pháp, Sâm tính báo đáp đại sư, nay lại gặp pháp sư Quảng Giác và cư sĩ Từ Chí Nhất, hai vị đã khổ tâm biên tập, giảo đính cuốn Đại Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên. Bản thảo hoàn thành, họ sai Sâm giám định, viết lời tựa để ấn hành, lại nhằm đúng dịp kỷ niệm đại sư khuất bóng đã ba năm, khổ nỗi bản thân văn chương kém cỏi, không thể nào tỏa rạng đạo mầu của đại sư, bèn viết lôi thôi như thế này cho xong hai chuyện ấy.
Chỉ mong độc giả kính tuân theo lời đại sư ra rả bảo ban, răn dạy, đừng cầu những thứ bàng môn nào khác nữa để khỏi phải lo sầu, chuyên lấy “đôn luân, tận phận, nhàn tà, tồn thành, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” (giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành) làm cơ sở trọn đạo làm người, lấy “chân vị sanh tử, phát Bồ Đề tâm, trì giới niệm Phật, cầu sanh Tây Phương” (thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, trì giới niệm Phật, cầu sanh Tây Phương) để làm con đường tắt bước vào cảnh Phật. Lấy ba mươi hai chữ ấy làm chuẩn mực để tiến hơn nữa, sẽ tùy duyên đọc tụng các kinh điển chân chánh do đức Phật đã nói thì sẽ tự có thể lúc sống trở thành bậc thánh bậc hiền, khi mất sẽ về cõi Như Lai, mãi cho đến khi viên mãn Bồ Đề. Những đạo mầu nhiệm khác đã có sẵn trong toàn thư (tức Ấn Quang Văn Sao Chánh Biên và Tục Biên), Sâm chẳng cần phải rườm lời chi nữa! Kính cẩn đề lời tựa.
Phật lịch 2970, ngày lành tháng Mười thiếu, thân giáo đệ tử Khổ Não tỳ kheo Đức Sâm hòa nam kính soạn.
[1] Nguyên văn “tín khẩu thư hoàng” (信 口 雌 磺). Theo Thành Ngữ Tự Điển, Thư Hoàng là một khoáng chất có màu vàng, mềm, dễ nghiền thành bột. Do thời cổ, giấy thường được nhuộm vàng bằng chất Hoàng Bá để tránh mối mọt, nên khi viết sai chữ nào, người ta dùng bột Thư Hoàng bôi lên, rồi viết chữ đúng chồng lên trên. Vào thời Đông Tấn, Vương Diễn vốn là một người hâm mộ tư tưởng Lão Trang, thích biện bác với người khác, nhưng thường ăn nói bừa bãi, câu sau mâu thuẫn câu trước. Hễ có ai chỉ ra chỗ sai, bèn nói lấp liếm, hoặc cãi chày cãi cối “tôi không hề nói câu ấy”, nên người thời ấy thường bảo ông ta “khẩu trung Thư Hoàng”, ngụ ý châm biếm miệng ông ta ngậm sẵn Thư Hoàng để bôi sửa những chỗ nói bậy. Sau này, câu “khẩu trung Thư Hoàng” bị biến đổi thành “tín khẩu Thư Hoàng” và được sử dụng với ý nghĩa ăn nói bừa bãi, rồ dại, không suy nghĩ, không cần biết đến hậu quả!
[2] Những kẻ vịn cơ bút để “thần tiên” giáng cơ thường được gọi là đồng tử, hoặc thanh đồng.
[3] Hoa Hội (花會) là một loại bài phổ biến vào triều Đạo Quang nhà Thanh, thoạt đầu chỉ lưu hành ở vùng Chiết Giang, về sau lan truyền khắp các tỉnh Quảng Đông, Phước Kiến, Giang Tô, Thượng Hải. Do bộ bài gồm ba mươi sáu quân bài, tượng trưng cho 36 nhân vật trong xã hội như hoàng đế, tể tướng, tướng quân, trạng nguyên, công chúa, ăn mày, hòa thượng, đạo sĩ, nho sĩ, tiều phu v.v… Lưng quân bài vẽ hình rồng, ngựa, bướm, cá v.v.. đẹp đẽ, nên gọi là Hoa Hội. Người chơi bài sẽ đặt tiền, nói tên một quân bài trước khi rút. Nếu rút trúng sẽ được nhà cái chung món tiền lớn gấp 30 lần tiền đặt nếu chỉ có một người chơi. Nếu hai người chơi thì chỉ được chung món tiền gấp 15 lần tiền đã đặt v.v…