Tác Giả

Lý Việt Dũng


Kinh Sách Cùng Tác Giả

Lý Việt Dũng – Một học giả… ‘vô sư tự ngộ’!

Trong quyển Yếu giải kinh A Di Đà lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam cũng như trên thế giới được in cả nguyên tác bằng chử Hán của Đại sư Linh Phong Ngẩu Ích cùng bản dịch Anh ngữ của Tiến sỉ J.C. Cleary và phần dịch sang Việt ngữ có chú giải của chính mình, học giả Lý Việt Dũng đã… “tự bạch” về “tiểu sử dài lòng thòng đáng chán của Song Hào Lý Việt Dũng”.

Trong đó ông thẳng thắng nhận rằng: “Về quan điểm cuộc sống, tôi là người lạc quan tếu… Tôi cũng chay mặn tùy duyên, không bó thân trong những giới luật xa rời cuộc sống, chẳng có bổn sư vì chẳng quy y ai, chẳng có giới xơ cứng để giữ, sống đa cảm tự tại, có hơi “quậy” một chút!”.

Thượng tọa Thích Hiền Đức – trụ trì chùa An Phú (TPHCM) người “bạn lòng dù đạo đời đôi ngã, nhưng luôn sát cánh nhau trong các công tác Phật sự” cũng nói về học giả Lý Việt Dũng với thái độ chân tình: “Tôi rất ái mộ phong cách ngổ ngáo, tiếu ngạo, sống rất trung thực trọn vẹn với chính mình của ông thuộc phần đời cũng như tư duy khoáng đạt, thung dung tự tại, siêu thoát Phật lý thuộc phần đạo của học giả”.

Thầy Thích Tịnh Tấn (Am Tịnh Tấn Sơn – Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng) cho biết: “Tôi với học giả không có mối thâm giao từ trước, nhưng qua thăm hỏi và theo dõi trên mạng tôi được biết ông là một học giả chân tài và rất thoáng trong giao du với mọi người. Thế là không bỏ công đường xa trở ngại, tôi đã từ Lâm Đồng đi xe đò dần mò hỏi thăm và đến được xóm Cầu Ván, xã An Hòa (Bến Gỗ). TP. Biên Hòa, gặp ông tại nhà. Thật là lời đồn không ngoa, đây là một cụ già tuổi đã cận kề 80 mà còn rất quắc thước nhanh nhẹn, tánh tình lại rất cởi mở hài hòa và qua một buổi hàn huyên đủ mọi đề tài, tôi vui mừng xác nhận đây là một học giả rất có biệt tài phiên dịch Hán tạng qua ba mảng Thiền, Tịnh, Mật”.

Những nhận xét chân thực nầy dường như cũng chưa khắc họa đầy đủ chân dung cũng như tính cách của một nhân vật thuộc vào hàng…” độc” và “hiếm” trong giới nghiên cứu, biên dịch chuyên sâu về Phật học và văn hóa phương Đông hiện nay: Song Hào Lý Việt Dũng.

Ông Lý Việt Dũng đọc và giải nghĩa sắc thần vua triều Nguyễn phong tặng kinh lược sứ Nguyễn Hửu Cảnh tại lễ giỗ của Đức Ông tại đền thờ ở Cù lao Phố Biên Hòa

“Kỷ lục gia” dịch sách Phật học

Gần đây, trong một bài trả lời phỏng vấn, học giả Lý Việt Dũng còn thẳng thắng so sánh trình độ của mình với người cùng dịch thuật chung nhiều công trình nghiên cứu về Phật giáo là Hòa thượng Thích Phước Sơn (Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam): “Thật tình mà nói, nếu ráng tìm cái gì đó khác nhau giữa tôi với Hòa thượng Phước Sơn thì có lẽ là điều nầy, Hòa thượng cũng công nhận, khả năng về thiền của tôi nhỉn hơn Hòa thượng tí xíu, tức là nắm bắt ý nghĩa và thiền lý có phần nào nhạy bén hơn, nhưng xem xét vấn đề một cách tỉ mỉ chuẩn xác thì tôi thua xa Hòa thượng”.

Cũng cần phải nói, “độc” và “hiếm” ở đây là trường hợp một người được xem là cư sĩ tại gia như ông Lý Việt Dũng lại được Giáo hội Phật giáo mời giảng dạy Thiền ngữ tại Học viện Phật giáo Việt Nam ở Thành phố Hồ Chí Minh, được các sư trụ trì chùa Viên Giác, chùa Kim Cương… mời giảng dạy và luyện dịch Hán tạng cho hàng trăm tăng sinh…

Và phải công nhận Song Hào Lý Việt Dũng có sức làm việc thật phi thường. Sống trong hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, lại đau bệnh “đọc sách cũng phải nằm võng, nếu ngồi bàn sẽ bị nghẻn tĩnh mạch, hai chân sưng vù”. Thế nhưng vẫn đều đều mỗi năm ông cho ra mắt 3 ấn phẩm, phần lớn là phiên dịch kinh điển Phật giáo với số trang thật… “nặng ký” (trên dưới 1.000 trang/quyển).

Tính đến nay, học giả Lý Việt Dũng đã có trên 40 đầu sách do ông biên dịch, biên soạn và biên khảo. Trong đó có những bộ sách Thiền tông Trung Hoa đồ sộ và rất nổi tiếng như: Cảnh Đức truyền đăng lục, Thiền tông Vô môn quan, Ngũ đăng hội nguyên, Cao tăng truyện… Trước đây, ở Việt Nam chỉ mới được trích lược hoặc giới thiệu sơ nét chứ chưa phiên dịch và chú giải do những bộ sách nầy có dung lượng quá lớn, nội dung lại thâm sâu, khó hiểu cả phần thiền ý lẫn văn lý (hầu hết sử dụng từ Hán cổ).

Nổi bật trong mảng sách Phật giáo, ngoài những bộ sách về Thiền rất đồ sộ vừa kể, học giả Lý Việt Dũng còn phiên dịch cả Hiển Mật tu học pháp yếu từ nguyên tác Tạng ngữ, Yếu giải kinh A Di Đà (Thập yếu Tịnh độ); biên soạn quyển Tổng hợp về Tịnh độ tông, Tóm tắt 300 bộ kinh luận Phật giáo danh tiếng, Gợi ý 1.130 công án Thiền tông Hoa Việt… Đặc biệt là cùng Hòa thượng Thích Phước Sơn dịch thuật quyển Thiền môn nghi thức (có nội dung quy định toàn bộ luật lệ, giới luật của chùa Thiền tông, được biên soạn đời Đường, trùng biên đời vua Thuận Đế nhà Nguyên) thành Sắc tu Bách Trượng thanh quy (trọn bộ 2 cuốn, xuất bản năm 2010 và tái bản ngay trong năm) được các chùa trong nước dùng làm nền tảng giới luật sinh hoạt cho chư tăng ni hiện nay.

Theo lời kể của ông Lý Việt Dũng, chuyện ông và Hòa thượng Thích Phước Sơn gặp gỡ để rồi trở thành “đôi bạn chí thân” cũng có rất nhiều điều lý thú. Trong đó có lần gặp đầu tiên cách nay hơn 20 năm. Lúc ấy bộ phim Tây Du Ký của đạo diễn nổi tiếng Dương Khiết đang được trình chiếu ở Việt Nam rất thu hút khán giả; nhưng cảnh Tôn giả A-nan và Ca Diếp đặt vấn đề đòi hối lộ mới chịu trao kinh cho thầy trò Đường Tăng lại gây bức xúc dư luận, nhất là trong giới Phật tử bình dân. Thấy vậy, ông Dũng nẩy ra ý định viết một bài báo giải thích ý nghĩa thâm sâu về hành động trên của hai ông Tôn giả (Học giả Lý Việt Dũng còn là cộng tác viên của báo Giác Ngộ, tuần báo Văn nghệ TPHCM, các tạp chí Tia Sáng, Nghiên Cứu và Phát triển – Huế, Cánh Én – Nha Trang…).

Trước khi viết, ông cẩn thận đến các chùa ở TP.HCM để tham khảo ý kiến của các bậc cao tăng. Đến Thiền viện Vạn Hạnh gặp sư Thích Phước Sơn (lúc đó còn là Thượng tọa). Qua đàm đạo, cả hai đều tâm đầu ý hợp và thống nhất nhận định: A nan và Ca Diếp không có tội mà là có công chỉ ra cho Đường Tăng tư tưởng buông xả rốt ráo (thuật ngữ Thiền là chứng ngộ) vì khi đã tới Tây phương rồi mà còn khư khư ôm cái bình bát vàng.

Bài báo được dư luận đồng tình nhờ sự phân giải cao minh nầy của… “đôi bạn”.

Năm 2006, giới học giả cũng như các nhà nghiên cứu, những người quan tâm tìm hiểu về lịch sử – văn hóa Nam bộ khá bất ngờ trước sự xuất hiện của ấn phẩm Gia Định Thành Thông chí của Trịnh Hoài Đức do Lý Việt Dũng dịch và chú giải, được Tiến sĩ Huỳnh Văn Tới hiệu đính (NXB Tổng hợp Đồng Nai).

Nguyên bản của bộ địa chí về vùng đất Nam bộ xưa do Trịnh Hoài Đức (1765-1825) ghi chép vào đầu thế kỷ XIX hầu như đã thất truyền, những bản dịch sau đó đang được lưu hành do điều kiện hạn chế nên có khá nhiều sai sót. Qua hơn 7 năm vừa tra cứu tài liệu, điền dã thực tế nhiều tỉnh miền Nam, trao đổi, tìm hiểu từ các nhà nghiên cứu… học giả Lý Việt Dũng đã phát hiện ra hơn 200 sai sót ở các bản dịch trước bao gồm 6 nhóm như: dịch nhầm địa danh, nhân vật, tên sản vật địa phương, ngữ nghĩa Hán văn, chép thiếu hoặc sai với nguyên văn; kể cả lổi morasse. Và ông đã biên dịch, đối chiếu rồi kỳ công chú giải một cách hợp lý, sát với thực tế; được đánh giá cao, sách được dùng làm tài liệu tham khảo tin cậy.

Với riêng Đồng Nai (đang là chốn dung cư), học giả Lý Việt Dũng còn có một công trình biên khảo khá công phu được Nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành, đó là Nghi và văn cúng chử Hán ở thành phố Biên Hòa.

Xóa ngộ nhận về Liêu trai chí dị

Năm 2006, học giả Lý Việt Dũng được Nhà xuất bản Phương Đông cho ra mắt công chúng một công trình biên khảo mà ông hết sức tâm đắc. Đó là Nghiên cứu chuyên sâu và 383 câu hỏi tri thức Liêu Trai.

Đối với Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh – một tác phẩm văn học thuộc loại thần kỳ của Trung Quốc ra đời cách nay 200 năm, được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới như: Việt Nam, Anh, Pháp, Đức, Nga, Thổ Nhỉ Kỳ… học giả Lê Việt Dũng có niềm say mê đặc biệt. Ông cho biết, đầu tiên ông đọc Liêu trai qua bản dịch của Tản Đà đã cảm thấy thích thú vô cùng nên phát tâm nghiên cứu sâu về tác phẩm nầy.

Được một người bạn là fan của Bồ Tùng Linh tặng cho bộ sách Tường chú Liêu trai chí dị do Lã Trạm Ân chú giải, đọc xong Lý Việt Dũng càng mê nên đọc trọn bộ Liêu trai chí dị nguyên bản gồm 16 quyển với 431 truyện mà Bồ Tùng Linh đã dành đến thời gian 50 năm để hoàn thành. Đọc rồi dịch. Lý Việt Dũng tâm sự: “Chính Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh ra đời vào đầu nhà Thanh (cuối thế kỷ 17) mới là tác phẩm đầu tiên mà tôi tâm đắc, mãi đến giờ vẩn còn tâm đắc. Tôi đã bỏ thời gian, công sức từ thuở thiếu niên đến bạc đầu để nghiên cứu chuyên sâu và dịch trọn bộ Liêu trai… Tôi cảm thấy rất đau buồn vì một tác phẩm vỉ đại như Liêu trai đã bị người đời hiểu sai, dịch bậy. Bao nhiêu dịch giả ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã dịch hỏng hoàn toàn tác phẩm nầy, ngay cả chính người Trung Quốc khi dịch sang Bạch thoại cũng còn rất nhiều va vấp. Tôi đã bỏ công cả đời để đọc hầu hết các bản dịch trong nước và thế giới rồi ra công chú giải, đính chính những chỗ sai nhầm nặng nề không thể chấp nhận được”.

Nghiên cứu điền dã tượng đầu Phật (Long Thành, tháng 8.2015)

Học giả Lý Việt Dũng còn cho rằng: “Không như nhiều người lầm tưởng, do không nghiên cứu chuyên sâu nên chỉ cho rằng sách toàn nói chuyện hoang đường yêu mị, họ không biết rằng 1/3 số truyện trong Liêu trai chí dị thấm đượm lý nhân duyên, luật nhân quả, hoằng dương sâu đậm Phật lý qua những câu chuyện đời thường”.

Mê Liêu trai chí dị và đã dịch xong trọn bộ sách này nhưng chưa được xuất bản, ông Lý Việt Dũng lại cất công biên soạn quyển Phật lý qua Liêu trai; trong đó có tuyển dịch 50 truyện Liêu trai chí dị thấm đượm giáo lý nhà Phật kèm lời bình của Đại sư Thích Viên Minh.

Được biết, hơn mười năm trước đây, một học giả Đài Loan có hợp tác với ông Lý Việt Dũng để dịch Đại tạng kinh sang tiếng Hán. Công việc được khoảng 10% thì ông ngã bệnh nặng, không thể tiếp tục công việc. Đến nay, phía Đài Loan vẫn chưa hoàn thành công trình này do thiếu người có đủ năng lực. Riêng bộ Thiền sử Ngũ đăng hội minh gồm 20 quyển đã được học giả Lý Việt Dũng dịch đến quyển 12 thì ngã bệnh đang được giao cho đại đệ tử của ông là Đặng Hửu Trí tiếp tục công trình. “Truyền nhân” Đặng Hữu Trí sinh ra trong một gia đình Công giáo dòng, tốt nghiệp khoa Quản trị kinh doanh của Trường Đại học Kinh tế TPHCM, lại học thêm khoa Đông phương học ở Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

Theo học tiếng Hán, đặc biệt là môn cổ văn Phật giáo với thầy Lý Việt Dũng, Đặng Hữu Trí đi sâu vào nghiên cứu các tông phái Phật giáo rồi say mê Thiền và “hoác nhiên… tiểu ngộ” nên chuyên tâm vào công tác dịch thuật. Trí đã dịch Tâm kinh giảng lục và Đại thừa tuyệt đối luận của Thiền sư Nguyệt Khê Tâm Viên (đã xuất bản), Pháp môn tu hành của Thiền tông, Hiển tông ký giảng lục, Kim Cang kinh thích yếu, Viên giác kinh chú sớ.

Học giả Lý Việt Dũng còn được biết đến với tư cách một nhà khảo cứu và đã xác nhận các chữ trên bia mộ thân sinh Tả quân Lê Văn Duyệt đã bị vua Minh Mạng cho đục bỏ. Ông cũng là người tham gia hợp soạn cuốn từ điển Anh Việt với 530.000 tập từ.

“Vô sư tự ngộ”

Sinh năm 1939 ở Bạc Liêu, Lý Việt Dũng vốn là giáo viên tiểu học rồi chuyển ngạch trở thành “giáo sư” trung học, ghi danh học Đại học Văn khoa Sài Gòn, làm giám đốc nhà máy gạch; tự học thông thạo tiếng Anh, Pháp, Hoa… Sau năm 1975, sống với nghề chài lưới rồi trở lại làm công nhân ngay tại nhà máy ông từng làm giám đốc; sau đó làm cho công ty xuất nhập khẩu Cimexcol Minh Hải đóng ở TPHCM.

Khi công ty này giải thể, ông quay trở lại nghề đánh bắt cá. Và rồi với cái vốn Hoa văn thâm hậu cùng những thành tựu trong việc nghiên cứu, dịch thuật kinh điển Phật giáo, ông Lý Việt Dũng đã quay lại nghề dạy học, có thời gian dài ông còn được giao phụ trách lớp Gia giáo chuyên luyện dịch Hán tạng, được các học giả An Chi và Đào Nguyên đánh giá cao cả về kiến thức chuyên môn lẫn phương pháp đào tạo.

Dự hội thảo góp ý về mấy sai sót trong quyển Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sển

Học giả Lý Việt Dũng cho rằng thành công của ông phần lớn là do tự học. Vốn là người Việt gốc Hoa, lại được cha là cụ Lý Khi – một nhạc sĩ ở Bạc Liêu có ngón đờn kìm vang danh một thời và thuộc lớp đàn anh của nhạc sĩ Cao Văn Lầu (tác giả bản Dạ cổ hoài lang) khuyến khích học chữ Hán từ nhỏ nên việc học chữ Hán của ông Dũng thật dễ dàng. Ông có năng khiếu đặc biệt là chuyên học từ điển. Lúc đầu là học các loại từ điển Hán Việt, sau đó đến các loại từ điển chuyên dụng và chuyên ngành như: Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Phật Quang đại từ điển, Từ điển Hán Việt Thiền tông…

Học giả Lý Việt Dũng còn hóm hỉnh mượn lời Hòa thượng Thích Phước Sơn cho là ông thuộc loại huân tu từ kiếp trước, nên kiếp này… “vô sư tự ngộ”, bẩm sinh đã nắm rõ thiền lý. Nhưng ông lại cho rằng bên cạnh những gì bẩm thụ, ông vẩn luôn tự ý thức, cần cù, nhẫn nại, bỏ ra nhiều công sức và thời gian để nghiên đọc rất nhiều kinh sách Phật học cũng như sách vở liên quan.

Học giả Lý Việt Dũng cũng đã tiết lộ phương pháp nghiên cứu và dịch thuật Thiền học đạt năng suất cao và thành công của ông là: “Trước hết phải đọc thật nhiều tác phẩm để nắm cho được thuật ngữ chuyên môn và phải đạt cho được trình độ kiến giải về Thiền hoặc triệt ngộ tâm nguyên, nhưng không để vướng mắc vào văn ngôn, ngữ cú.

Kinh nghiệm bản thân tôi là muốn dịch đạt được tín, nhã, đạt, phải học chuyên sâu chữ Hán, đọc, nghiên cứu nhiều, đồng thời nên tham gia giảng dạy để thu thập thêm kiến thức; đặc biệt là phải trang bị thêm tiếng Anh, Pháp để tham khảo các tác phẩm loại nầy. Theo tôi, phương pháp nghiên cứu của học giả phương Tây cụ thể và hiệu quả hơn Việt Nam chúng ta. Muốn phát triển lâu dài, bền vững, chúng ta phải học chuyên sâu, tức là muốn nghiên cứu lĩnh vực nào, trước hết phải học chuyên sâu lỉnh vực đó!”.

Trich Luc: QuangDuc.com
 

Cố Giáo Sư Minh Chi
Cố Giáo Sư Trương Đình Nguyên
Cư Sĩ Bành Tế Thanh
Cư Sĩ Bích Ngọc
Cư Sĩ Cao Hữu Đính
Cư Sĩ Chân Hiền Tâm
Cư Sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền
Cư Sĩ Đạo Quang
Cư Sĩ Diệu Âm
Cư Sĩ Diệu Hà
Cư Sĩ Định Huệ
Cư Sĩ Đoàn Trung Còn
Cư Sĩ Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ
Cư Sĩ Dương Đình Hỷ
Cư Sĩ Đường Tương Thanh
Cư Sĩ Giang Đô Trịnh Vĩ Am
Cư Sĩ Giang Vị Nông
Cư Sĩ Hạnh Cơ
Cư Sĩ Hồ U Trinh Ở Núi Tứ Minh
Cư Sĩ Hoàng Phước Đại
Cư Sĩ Hồng Như
Cư Sĩ Hồng Dương Nguyễn Văn Hai
Cư Sĩ Huệ Thiện
Cư Sĩ Huỳnh Lão
Cư Sĩ Khánh Vân
Cư Sĩ Lâm Cự Tinh
Cư Sĩ Lâm Khán Trị
Cư Sĩ Lê Huy Trứ MSEE
Cư Sĩ Lê Sỹ Minh Tùng
Cư Sĩ Liêu Nguyên
Cư Sĩ Liêu Địch Liên
Cư Sĩ Lưu Minh Chánh
Cư Sĩ Lưu Thừa Phù Ghi Chép
Cư Sĩ Lý Viên Tịnh
Cư Sĩ Lý Nhất Quang
Cư Sĩ Mao Lăng Vân cung kính kết tập
Cư Sĩ Minh Chánh
Cư Sĩ Minh Trí và Mẫn Đạt
Cư Sĩ Ngô Đức Thọ
Cư Sĩ Nguyên Giác
Cư Sĩ Nguyên Hồng
Cư Sĩ Nguyễn Lang
Cư Sĩ Nguyên Phong
Cư Sĩ Nguyễn Đức Sâm , Ngô Đức Thọ
Cư Sĩ Nguyễn Hữu Kiệt
Cư Sĩ Nguyễn Minh Tiến
Cư Sĩ Nguyễn Xuân Chiến
Cư Sĩ Như Hòa
Cư Sĩ Phạm Cổ Nông
Cư Sĩ Phúc Trung
Cư Sĩ Phương Luân
Cư Sĩ Quách Huệ Trân
Cư Sĩ Quảng Minh
Cư Sĩ Tâm Phước
Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
Cư Sĩ Thiên Nhơn
Cư Sĩ Thôi Chú Bình
Cư Sĩ Thuần Bạch
Cư Sĩ Tiểu Bình Thật
Cư Sĩ Tịnh Mặc
Cư Sĩ Tịnh Nghiệp
Cư Sĩ Tịnh Thọ
Cư Sĩ Tô Khắc Minh
Cư Sĩ Tôn A Tử
Cư Sĩ Trần Anh Kiệt
Cư Sĩ Tuệ Khai
Cư Sĩ Uông Trí Biểu
Cư Sĩ Viên Đạt
Cư Sĩ Võ Đình Cường
Cư Sĩ Vọng Tây
Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân
Đại Lão Hòa Thượng Thích Ấn Quang
Đại Lão Hòa Thượng Thích Diễn Bồi
Đại Lão Hòa Thượng Thích Hành Trụ
Đại Lão Hòa Thượng Thích Mộng Tham
Đại Lão Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ
Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan
Đại Lão Hòa Thượng Thích Tinh Vân
Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang
Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
Đại Sư An Thế Cao
Đại Sư Bách Trượng Hoài Hải
Đại Sư Châu Hoằng
Đại Sư Chí Công
Đại Sư Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa
Đại Sư Đạo Nguyên
Đại Sư Đạo Tuyên
Đại Sư Diệu Hiệp
Đại Sư Diệu Khẩu
Đại Sư Diệu Không
Đại Sư Đời Tống, Nguyên Chiếu
Đại Sư Duy Tắc Thiền sư Thiên Như Đời Dao Tần
Đại Sư Gia Tường Cát Tạng
Đại Sư Hải Đông
Đại Sư Hám Sơn
Đại Sư Hàm Thị
Đại Sư Hoài Cảm
Đại Sư Hoằng Nhất
Đại Sư Hoằng Tán
Đại Sư Huệ Ngộ
Đại Sư Khuy Cơ
Đại Sư Liên Trì
Đại Sư Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc
Đại Sư Pháp Tạng Hiền Thủ
Đại Sư Phi Tích
Đại Sư Pomnyun Sunim Trí Quang
Đại Sư Quán Đảnh
Đại Sư Quảng Khâm
Đại Sư Tăng Triệu
Đại Sư Thái Hư
Đại Sư Thân Loan
Đại Sư Thang Hương Danh
Đại Sư Thanh Lương Trừng Quán
Đại Sư Thật Hiền
Đại Sư Thật Xoa Nan Đà
Đại Sư Thích Ấn Thuận
Đại Sư Thích Tăng Triệu
Đại Sư Thích Tịnh Chiếu
Đại Sư Thiện Đạo Đời Đường
Đại Sư Thiên Thai Trí Giả
Đại Sư Thượng Sư Tsong Kha Pa
Đại Sư Tĩnh Am
Đại Sư Tông Bổn
Đại Sư Tri Lễ
Đại Sư Triệt Ngộ
Đại Sư Trung Phong Minh Bổn
Đại Sư Tsong Kha Pa
Đại Sư Ưu Đàm
Đại Sư Vi Lâm Đạo Bái
Đại Sư Viên Hư
Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ
Đời Dao Tần, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Đời Đường Sa Môn Văn Thẩm Thiếu Khương
Đời Lưu Tống Cương Lương Gia Xá
Hòa Thượng DaLai Lama
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc
Hòa Thượng Thích Bích Liên
Hòa Thượng Thích Chân Thường
Hòa Thượng Thích Diệu Liên
Hòa Thượng Thích Đồng Bổn
Hòa Thượng Thích Đổng Minh
Hòa Thượng Thích Đức Nhuận
Hòa Thượng Thích Đức Niệm
Hòa Thượng Thích Đức Thắng
Hòa Thượng Thích Giác Khang
Hòa Thượng Thích Giác Qủa
Hòa Thượng Thích Giác Quang
Hòa Thượng Thích Hân Hiền
Hòa Thượng Thích Hoằng Tri
Hòa Thượng Thích Hoằng Trí
Hòa Thượng Thích Hồng Đạo
Hòa Thượng Thích Hồng Nhơn
Hòa Thượng Thích Huệ Hưng
Hòa Thượng Thích Huyền Dung
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
Hòa Thượng Thích Huyền Vi
Hòa Thượng Thích Khánh Anh
Hòa Thượng Thích Khế Chơn
Hòa Thượng Thích Mãn Giác
Hòa Thượng Thích Minh Cảnh
Hòa Thượng Thích Minh Châu
Hòa Thượng Thích Minh Lễ
Hòa Thượng Thích Minh Thành
Hòa Thượng Thích Nhất Chân
Hòa Thượng Thích Như Điển
Hòa Thượng Thích Pháp Chánh
Hòa Thượng Thích Phước Nhơn
Hòa Thượng Thích Phước Sơn
Hòa Thượng Thích Quảng Độ
Hòa Thượng Thích Quang Phú
Hòa Thượng Thích Tâm Châu
Hòa Thượng Thích Tâm Quang
Hòa Thượng Thích Thái Hòa
Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Hòa Thượng Thích Thiên Ân
Hòa Thượng Thích Thiện Châu
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ
Hòa Thượng Thích Thiện Phụng
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Hòa Thượng Thích Thông Bửu
Hòa Thượng Thích Tịnh Không
Hòa Thượng Thích Tịnh Nghiêm
Hòa Thượng Thích Tịnh Từ
Hòa Thượng Thích Toàn Châu
Hòa Thượng Thích Trí Chơn
Hòa Thượng Thích Trí Hoằng
Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Hòa Thượng Thích Trí Thủ
Hòa Thượng Thích Trung Quán
Hòa Thượng Thích Từ Quang
Hòa Thượng Thích Tuệ Đăng
Hòa Thượng Thích Tuệ Đăng
Hòa Thượng Thích Tuệ Nhuận
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
Hòa Thượng Thích Tuyên Hóa
Hòa Thượng Thích Viên Giác
Hòa Thượng Thích Viên Huy
Hòa Thượng Thích Viên Lý
Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã
Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm
Tam Tạng Pháp Sư Đề Vân Bát Nhã
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Thượng Nhân Pháp Nhiên
Thượng Tọa Thích Chân Tính
Thượng Tọa Thích Chánh Lạc
Thượng Tọa Thích Đồng Ngộ
Thượng Tọa Thích Đức Trí
Thượng Tọa Thích Giải Hiền
Thượng Tọa Thích Hằng Đạt
Thượng Tọa Thích Hạnh Bình
Thượng Tọa Thích Huyền Châu
Thượng Tọa Thích Mật Thể
Thượng Tọa Thích Minh Tuệ
Thượng Tọa Thích Nguyên Bình
Thượng Tọa Thích Nguyên Chơn
Thượng Tọa Thích Nguyên Hùng
Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng
Thượng Tọa Thích Nhuận Châu
Thượng Tọa Thích Phổ Huân
Thượng Tọa Thích Phước Hòa
Thượng Tọa Thích Phước Thái
Thượng Tọa Thích Quảng Ánh
Thượng Tọa Thích Tâm Hải
Thượng Tọa Thích Tiến Đạt
Thượng Tọa Thích Trí Đức
Thượng Tọa Thích Trí Siêu
Thượng Tọa Thích Trường Lạc
Thượng Tọa Thích Vĩnh Hóa
Tiến Sĩ Lê Sơn Phương Ngọc
Tiến Sĩ Sinh Học Matthieu Ricard
Tiến Sĩ Vật Lý Trịnh Xuân Thuận
Tỳ Kheo Thích Đăng Quang
Tỳ Kheo Thích Đồng Thọ
Tỳ Kheo Thích Đồng Tịnh
Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Tỳ Kheo Thích Giác Nghiên
Tỳ Kheo Thích Giới Bổn
Tỳ Kheo Thích Giới Đức
Tỳ Kheo Thích Giới Nghiêm
Tỳ Kheo Thích Hoằng Đạo
Tỳ Kheo Thích Hoằng Thường
Tỳ Kheo Thích Huệ Chiểu Chùa Đại Vân Ở Chuy Châu
Tỳ Kheo Thích Minh Điền
Tỳ Kheo Thích Minh Định
Tỳ Kheo Thích Minh Trí
Tỳ Kheo Thích Nguyên Chứng
Tỳ Kheo Thích Tâm Hạnh
Tỳ Kheo Thích Thanh Giác
Tỳ Kheo Thích Thiện Hạnh
Tỳ Kheo Thích Thiện Trang
Tỳ Kheo Thích Thông Huệ
Tỳ Kheo Thích Viên Ngộ
Tỳ Kheo Visuđhacara



Ba nguyên tắc để siêu việt cái chết: Đừng tìm đến cái chết, đừng sợ chết, đừng chờ đợi chết.