Tác Giả

Hòa Thượng Thích Giác Khang

Tiểu Sử Hoà Thượng Thích Giác Khang

Chắc hẳn có nhiều người vẫn chưa biết Hoà Thượng Thích Giác Khang là ai? Hãy tìm hiểu về cuộc đời tu học và giảng pháp của Hoà Thượng Thích Giác Khang trong bài viết dưới đây.

Sơ lược về tiểu sử của Hoà Thượng Thích Giác Khang

Hòa Thượng Giác Khang thế danh Tô Văn Vinh sinh năm 1941 tại tỉnh Bạc Liêu. Hòa Thượng là con thứ 8 trong gia đình. Thân sinh là cụ ông Tô Khanh và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Vén. Hòa Thượng tốt nghiệp Tú Tài và học Cao đẳng Sư phạm, khi ra trường đi dạy học ở Cái Côn – Cần Thơ.

Trong thời gian đi dạy học, Hòa Thượng có nghiên cứu các tôn giáo, trong đó có Phật giáo. Cảm nhận lời Phật dạy qua câu “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”, Hòa Thượng ngộ được lý Bình đẳng của đạo Phật. Từ đó, Sư Thầy tiếp tục nghiên cứu sâu về giáo lý Phật giáo và đến tham vấn nhiều chư Tăng về sự xuất gia cũng như giáo lý Phật-đà. Hòa Thượng cảm nhận được lòng từ bi của chư Phật qua giáo lý ăn chay và sau đó Ngài phát tâm trường chay.

Thấm nhuần lời Phật dạy và dạy ích của sự xuất gia giải thoát, đầu năm 1966, Sư Thích Giác Khang phát nguyện xuất gia tu học nương theo Bổn Sư là Đức Tri Sư Giác Như tại Tịnh xá Ngọc Vân tại tỉnh Trà Vinh. Cùng năm đó, Hòa Thượng thọ giới Sa-di tại Tịnh xá Ngọc Vân – Trà Vinh.

Đến tháng 7/1971, Sư Thầy Thích Giác Khang thọ giới cụ túc Tỳ-kheo tại Tịnh xá Ngọc Viên – tỉnh Vĩnh Long, rồi luân chuyển đến các Tịnh xá giáo đoàn I tu học để góp phần cùng chư Tăng hoằng pháp độ sinh tại các trú xứ.

Đầu năm 1975, Hòa Thượng theo đoàn Du Tăng Khất Sĩ của Đức Nhị Tổ và chư Tăng trong đoàn hành đạo tại tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu. Đến năm 1980, Ngài theo đoàn hành đạo về huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Năm 1982, Hòa Thượng về Tịnh xá Ngọc Vân – Trà Vinh tu học để phụ tiếp với Đức Tri sự Bổn Sư.

Không chỉ tại địa phương mà tại các đạo tràng có nhu cầu thỉnh pháp, Hòa Thượng Thích Giác Khang đều đến để thuyết giảng chánh pháp như: Tịnh xá Ngọc Trường, Chùa Phước An, Chùa Phước Thành, Chùa Thanh Quang. Các tịnh xá ngoài tỉnh như: Tịnh xá Ngọc Lợi – Bạc Liêu, Tịnh xá Ngọc Viên – Vĩnh Long… Sau đó, đoàn hành hương đến Thái Lan để thăm viếng các chùa. Đoàn dừng chân khoảng 1 tuần và có ý đi Miến Điện để chiêm bái các Thánh tích.

Tuy nhiên, thời gian sau, sức khỏe của Hòa thượng Thích Giác Khang yếu dần, chư Tăng và quý Phật tử tận tình chăm sóc. Hòa Thượng cảm nhận rằng mình không còn tại thế lâu dài được nữa, nên ngài trình tâm nguyện lên Hòa thượng Giác Giới – Tri Sự trưởng GĐ1 liễu tri để Hòa Thượng tạo duyên tu học cho chư Tăng và chư Phật tử đạo tràng Tịnh xá Ngọc Vân. Vào lúc 15 giờ ngày 30 tháng 3 năm Quý Tỵ, Hòa thượng thu thần thị tịch, để lại vô vàn sự kính tiếc của chư Tăng Ni và toàn thể quý Phật tử gần xa.

Các thời kỳ tu học và giảng pháp của Hoà Thượng Thích Giác Khang

Thời kỳ đầu tu học

Năm 1966, Ngài xuất gia theo hệ Khất sĩ tại Tịnh xá Ngọc Vân tỉnh Trà Vinh. Ngài có 2 Bổn Sư là Nhị Tổ Giác Chánh và Đức Trị sự Giác Như. Từ năm 1968 đến năm 1983, Ngài theo Nhị Tổ Giác Chánh đi hành đạo khắp nơi ở miền Tây Nam bộ. Sư thầy Thích Giác Khang học “Chơn lý” và hành trì “Trú dạ lục thời” theo giáo lý Khất sĩ của Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang.

Trong thời này, Hòa thượng  thường xuyên nhập vào định tam thiền và tìm chỗ vắng vẻ nhập vào thiền định từ 7 – 9 tiếng nghiền ngẫm thuần thục bộ “Chơn lý”. Nhưng trong quá trình tu học, Ngài thấy bế tắc về Bát nhã, về con đường giải thoát và cảm thấy thất vọng vô cùng. Trong lúc chán nản, chợt nhìn trên kệ kinh thấy quyển “Đường vào hiện sinh” của Kisnamurti do Trúc Thiện dịch, Hòa thượng đã đọc và ngộ được Chân lý Bát nhã. Kể từ đó, sư thầy Thích Giác Khang tìm đọc những quyển do Trúc Thiên, hay cụ Mai Thọ Truyền dịch, Duy thức học của Giáo sư Thạc Đức, quyển Phật học tinh hoa của Nguyễn Duy Cần…

Năm 1983, do tình hình thời thế có sự thay đổi, Ngài trở về Tịnh xá Ngọc Vân. Đến năm 1985, Đức Trị sự Giác Như viên tịch, giao nhiệm vụ trụ trì lại cho Ngài. Tại đây, trong các buổi cúng hội, Sư Thầy giảng chuyên về Chơn lý và dạy tu thiền định đã thu hút rất đông chư Phật tử.

Hoà Thượng Thích Giác Khang giảng pháp

Thời kỳ thứ hai

Sau thời gian giảng dạy, Hòa thượng Thích Giác Khang lâm trọng bệnh. Sau những ngày mê man, khi tỉnh dậy Ngài suy nghĩ trong thời buổi này tu pháp môn Thiền tông khó mà đắc Thánh quả. Chính vì vậy, Hòa Thượng nghĩ rằng pháp môn Tịnh độ nếu hành đúng sẽ được vãng sanh về thế giới Cực lạc thì một đời sẽ thành Phật. Lúc đó, Ngài nhờ phật tử thỉnh quyển kinh A Di Đà của Tri Húc Đại Sư. Ngài đọc được câu thơ “có thiền, có tịnh như cọp mọc thêm sừng” của Đại Sư Vĩnh Minh và từ đó quyết định “Thiền-Tịnh song tu”.

Hòa thường Thích Giác Khang bắt đầu nghiên cứu các kinh sách về Tịnh độ tông như pháp môn Tịnh độ của Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Niệm phật tập yếu của Ngài Thiền Tâm, Lá thư Tịnh độ của Ngài Quang Đại Sư… Sau đó, Sư Thầy giảng dạy thiền tông phối hợp với Tịnh độ tông cho Phật tử. Trong các bài giảng dạy, Ngài đặt ra 6 câu hỏi về pháp môn Tịnh độ, Phật tử từng bước trả lời các câu hỏi đó. Nhưng sau này, khi nhiều chùa thỉnh Ngài giảng trong các ngày Phật thất, Ngài đã thêm một câu hỏi nữa, đến nay là 7 câu hỏi về pháp môn Tịnh độ.

Thời kỳ thứ ba

Qua kinh Trung Bộ, Hòa thượng Thích Giác Khang đọc được bài kinh Sáu Sáu, thấy Đức Phật giảng thực tế đi vào trong cuộc sống, sau khi Đức Phật giảng xong có 60 vị Tỳ kheo đắc quả Alahán. Từ đây, mỗi ngày sư thầy phối hợp Duy thức giảng bài kinh Sáu Sáu. Tuy nhiên, Ngài thấy lối giảng này chưa được sáng tỏ, Ngài tiếp tục tìm chỗ ẩn tu để suy gẫm vào chiều sâu. Ngài tìm đến Sư Thức đang tu tịnh ở tỉnh Sa Đéc. Đây là vị Sư được Nhị Tổ quan tâm, cũng là vị Sư mà Ngài thường hay nhắc đến trong lúc giảng pháp.

Trong thời gian tịnh tu, Hòa thượng đặt thêm 4 câu hỏi nữa, tổng cộng là 10 câu hỏi của bài kinh Sáu Sáu. Ngài rất tâm đắc đoạn kinh Đức Phật chỉ dạy Ngài Anan nhận lại Bát nhã qua 6 căn ngay trong lúc đánh chuông. Bên cạnh đó, Ngài nghiên cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm do bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám dịch.

Sau khi kết thúc khóa giảng lần 2, Ngài thấy chưa vừa ý nên đã đi tịnh tu tại Đà Lạt, do Phật tử Tịnh Giới cất cái cốc dưới thung lũng xa thành phố cho Ngài. Trong thời gian này, Hòa thường thường đi vào rừng sâu, suối, thác để nương cảnh tạo tâm.

Năm 2007, phật tử thỉnh Ngài giảng bài kinh Sáu Sáu lần 3. Ngài giảng bài kinh Sáu Sáu phối hợp giữa kinh Nguyên thủy, Đại thừa, Tiểu thừa. Ngài chọn kinh Thủ Lăng Nghiêm, Duy thức, bộ sách của cụ Nghiêm Xuân Hồng và pháp môn Tịnh độ lồng vào bài giảng kinh Sáu Sáu. Lần này, Ngài giảng đi vào chiều sâu của Bát nhã ứng dụng ngay trong thực tế cuộc sống.

Thời kỳ thứ tư

Trong giai đoạn này, sức khỏe của Hòa thượng Thích Giác Khang giảm sút. Ngài định an trí và thường nói cho một ít phật tử thuần thành là Ngài chọn Sư Minh Hiệp kế thừa Ngài, sau khi Ngài viên tịch Sư Minh Hiệp hướng dẫn Tăng chúng.

Tiếp đó, Ngài gọi vài Phật tử kết tập lại bài giảng của Ngài qua 5 chuyên đề: Muốn vãng sanh về xứ Cực lạc của Phật A Di Đà có mấy điều kiện, Nhận thức về Tái sanh – Chứng ngộ – Vãng sanh, Khổ Đế về nhân sinh quan, Khổ Đế về Vũ trụ quan, Nhân quả và nghiệp. Các chuyên đề này được Ngài giám sát chặt chẽ lối hành văn có diễn đạt sáng tỏ giữa tư tưởng và Bát nhã hay không, có rơi vào ngũ ấm ma hay không.

Bên cạnh đó lo về thân để phật tử tu thiền định dễ dàng, đồng thời giúp đỡ người nghèo khó, Ngài lập ra quán cơm gạo lức từ thiện. Thêm vào đó, lo về tâm, Ngài lập Ban Hộ niệm giúp đở người sắp lâm chung được vãng sanh về thế giới Cực lạc. Kết quả được nhiều người vãng sanh lưu lại xá lợi.

Năm 2012, Phật tử thỉnh Ngài giảng bài kinh Sáu Sáu lần 4. Đợt giảng này rất đông Phật tử mới, trong những buổi giảng đầu tiên Ngài đưa ra 3 câu chuyện: Tổ Bồ Đề Đạt Ma và vua Lương Võ Đế, Sư Huyền Giác và Lục Tổ Huệ Năng, Bảy trạm xe để trắc nghiệm lại trình độ Phật pháp của Phật tử. Ngài thường khuyên Phật tử nên tổ chức đi đến sông lớn, biển Ba Động ngồi thiền định, để thấy được cảnh mông lung, bao la mà soi rọi lại tâm của mình. Sau khi trắc nghiệm xong, Ngài thấy cần phải quay trở lại giảng “Bài học vở lòng” đó là 4 đường ác và người trời dục giới cho đến lúc Ngài đi Ấn Độ.

Hòa thượng Giác Khang là một bậc tôn túc, chân sư đạo hạnh trong Hệ phái Khất Sĩ. Ngài đem cả cuộc đời phụng sự và hiến dâng cho đạo pháp. Đời Ngài là một tấm gương sáng, mẫu mực về hạnh tiết thực, xả ly, vô trụ và hướng đến đời sống đạo hạnh.
 

Cố Giáo Sư Minh Chi
Cố Giáo Sư Trương Đình Nguyên
Cư Sĩ Bành Tế Thanh
Cư Sĩ Bích Ngọc
Cư Sĩ Cao Hữu Đính
Cư Sĩ Chân Hiền Tâm
Cư Sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền
Cư Sĩ Đạo Quang
Cư Sĩ Diệu Âm
Cư Sĩ Diệu Hà
Cư Sĩ Định Huệ
Cư Sĩ Đoàn Trung Còn
Cư Sĩ Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ
Cư Sĩ Dương Đình Hỷ
Cư Sĩ Đường Tương Thanh
Cư Sĩ Giang Đô Trịnh Vĩ Am
Cư Sĩ Giang Vị Nông
Cư Sĩ Hạnh Cơ
Cư Sĩ Hồ U Trinh Ở Núi Tứ Minh
Cư Sĩ Hoàng Phước Đại
Cư Sĩ Hồng Như
Cư Sĩ Hồng Dương Nguyễn Văn Hai
Cư Sĩ Huệ Thiện
Cư Sĩ Huỳnh Lão
Cư Sĩ Khánh Vân
Cư Sĩ Lâm Cự Tinh
Cư Sĩ Lâm Khán Trị
Cư Sĩ Lê Huy Trứ MSEE
Cư Sĩ Lê Sỹ Minh Tùng
Cư Sĩ Liêu Nguyên
Cư Sĩ Liêu Địch Liên
Cư Sĩ Lưu Minh Chánh
Cư Sĩ Lưu Thừa Phù Ghi Chép
Cư Sĩ Lý Viên Tịnh
Cư Sĩ Lý Nhất Quang
Cư Sĩ Mao Lăng Vân cung kính kết tập
Cư Sĩ Minh Chánh
Cư Sĩ Minh Trí và Mẫn Đạt
Cư Sĩ Ngô Đức Thọ
Cư Sĩ Nguyên Giác
Cư Sĩ Nguyên Hồng
Cư Sĩ Nguyễn Lang
Cư Sĩ Nguyên Phong
Cư Sĩ Nguyễn Đức Sâm , Ngô Đức Thọ
Cư Sĩ Nguyễn Hữu Kiệt
Cư Sĩ Nguyễn Minh Tiến
Cư Sĩ Nguyễn Xuân Chiến
Cư Sĩ Như Hòa
Cư Sĩ Phạm Cổ Nông
Cư Sĩ Phúc Trung
Cư Sĩ Phương Luân
Cư Sĩ Quách Huệ Trân
Cư Sĩ Quảng Minh
Cư Sĩ Tâm Phước
Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
Cư Sĩ Thiên Nhơn
Cư Sĩ Thôi Chú Bình
Cư Sĩ Thuần Bạch
Cư Sĩ Tiểu Bình Thật
Cư Sĩ Tịnh Mặc
Cư Sĩ Tịnh Nghiệp
Cư Sĩ Tịnh Thọ
Cư Sĩ Tô Khắc Minh
Cư Sĩ Tôn A Tử
Cư Sĩ Trần Anh Kiệt
Cư Sĩ Tuệ Khai
Cư Sĩ Uông Trí Biểu
Cư Sĩ Viên Đạt
Cư Sĩ Võ Đình Cường
Cư Sĩ Vọng Tây
Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân
Đại Lão Hòa Thượng Thích Ấn Quang
Đại Lão Hòa Thượng Thích Diễn Bồi
Đại Lão Hòa Thượng Thích Hành Trụ
Đại Lão Hòa Thượng Thích Mộng Tham
Đại Lão Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ
Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan
Đại Lão Hòa Thượng Thích Tinh Vân
Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang
Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
Đại Sư An Thế Cao
Đại Sư Bách Trượng Hoài Hải
Đại Sư Châu Hoằng
Đại Sư Chí Công
Đại Sư Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa
Đại Sư Đạo Nguyên
Đại Sư Đạo Tuyên
Đại Sư Diệu Hiệp
Đại Sư Diệu Khẩu
Đại Sư Diệu Không
Đại Sư Đời Tống, Nguyên Chiếu
Đại Sư Duy Tắc Thiền sư Thiên Như Đời Dao Tần
Đại Sư Gia Tường Cát Tạng
Đại Sư Hải Đông
Đại Sư Hám Sơn
Đại Sư Hàm Thị
Đại Sư Hoài Cảm
Đại Sư Hoằng Nhất
Đại Sư Hoằng Tán
Đại Sư Huệ Ngộ
Đại Sư Khuy Cơ
Đại Sư Liên Trì
Đại Sư Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc
Đại Sư Pháp Tạng Hiền Thủ
Đại Sư Phi Tích
Đại Sư Pomnyun Sunim Trí Quang
Đại Sư Quán Đảnh
Đại Sư Quảng Khâm
Đại Sư Tăng Triệu
Đại Sư Thái Hư
Đại Sư Thân Loan
Đại Sư Thang Hương Danh
Đại Sư Thanh Lương Trừng Quán
Đại Sư Thật Hiền
Đại Sư Thật Xoa Nan Đà
Đại Sư Thích Ấn Thuận
Đại Sư Thích Tăng Triệu
Đại Sư Thích Tịnh Chiếu
Đại Sư Thiện Đạo Đời Đường
Đại Sư Thiên Thai Trí Giả
Đại Sư Thượng Sư Tsong Kha Pa
Đại Sư Tĩnh Am
Đại Sư Tông Bổn
Đại Sư Tri Lễ
Đại Sư Triệt Ngộ
Đại Sư Trung Phong Minh Bổn
Đại Sư Tsong Kha Pa
Đại Sư Ưu Đàm
Đại Sư Vi Lâm Đạo Bái
Đại Sư Viên Hư
Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ
Đời Dao Tần, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Đời Đường Sa Môn Văn Thẩm Thiếu Khương
Đời Lưu Tống Cương Lương Gia Xá
Hòa Thượng DaLai Lama
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc
Hòa Thượng Thích Bích Liên
Hòa Thượng Thích Chân Thường
Hòa Thượng Thích Diệu Liên
Hòa Thượng Thích Đồng Bổn
Hòa Thượng Thích Đổng Minh
Hòa Thượng Thích Đức Nhuận
Hòa Thượng Thích Đức Niệm
Hòa Thượng Thích Đức Thắng
Hòa Thượng Thích Giác Khang
Hòa Thượng Thích Giác Qủa
Hòa Thượng Thích Giác Quang
Hòa Thượng Thích Hân Hiền
Hòa Thượng Thích Hoằng Tri
Hòa Thượng Thích Hoằng Trí
Hòa Thượng Thích Hồng Đạo
Hòa Thượng Thích Hồng Nhơn
Hòa Thượng Thích Huệ Hưng
Hòa Thượng Thích Huyền Dung
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
Hòa Thượng Thích Huyền Vi
Hòa Thượng Thích Khánh Anh
Hòa Thượng Thích Khế Chơn
Hòa Thượng Thích Mãn Giác
Hòa Thượng Thích Minh Cảnh
Hòa Thượng Thích Minh Châu
Hòa Thượng Thích Minh Lễ
Hòa Thượng Thích Minh Thành
Hòa Thượng Thích Nhất Chân
Hòa Thượng Thích Như Điển
Hòa Thượng Thích Pháp Chánh
Hòa Thượng Thích Phước Nhơn
Hòa Thượng Thích Phước Sơn
Hòa Thượng Thích Quảng Độ
Hòa Thượng Thích Quang Phú
Hòa Thượng Thích Tâm Châu
Hòa Thượng Thích Tâm Quang
Hòa Thượng Thích Thái Hòa
Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Hòa Thượng Thích Thiên Ân
Hòa Thượng Thích Thiện Châu
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ
Hòa Thượng Thích Thiện Phụng
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Hòa Thượng Thích Thông Bửu
Hòa Thượng Thích Tịnh Không
Hòa Thượng Thích Tịnh Nghiêm
Hòa Thượng Thích Tịnh Từ
Hòa Thượng Thích Toàn Châu
Hòa Thượng Thích Trí Chơn
Hòa Thượng Thích Trí Hoằng
Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Hòa Thượng Thích Trí Thủ
Hòa Thượng Thích Trung Quán
Hòa Thượng Thích Từ Quang
Hòa Thượng Thích Tuệ Đăng
Hòa Thượng Thích Tuệ Đăng
Hòa Thượng Thích Tuệ Nhuận
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
Hòa Thượng Thích Tuyên Hóa
Hòa Thượng Thích Viên Giác
Hòa Thượng Thích Viên Huy
Hòa Thượng Thích Viên Lý
Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã
Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm
Tam Tạng Pháp Sư Đề Vân Bát Nhã
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Thượng Nhân Pháp Nhiên
Thượng Tọa Thích Chân Tính
Thượng Tọa Thích Chánh Lạc
Thượng Tọa Thích Đồng Ngộ
Thượng Tọa Thích Đức Trí
Thượng Tọa Thích Giải Hiền
Thượng Tọa Thích Hằng Đạt
Thượng Tọa Thích Hạnh Bình
Thượng Tọa Thích Huyền Châu
Thượng Tọa Thích Mật Thể
Thượng Tọa Thích Minh Tuệ
Thượng Tọa Thích Nguyên Bình
Thượng Tọa Thích Nguyên Chơn
Thượng Tọa Thích Nguyên Hùng
Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng
Thượng Tọa Thích Nhuận Châu
Thượng Tọa Thích Phổ Huân
Thượng Tọa Thích Phước Hòa
Thượng Tọa Thích Phước Thái
Thượng Tọa Thích Quảng Ánh
Thượng Tọa Thích Tâm Hải
Thượng Tọa Thích Tiến Đạt
Thượng Tọa Thích Trí Đức
Thượng Tọa Thích Trí Siêu
Thượng Tọa Thích Trường Lạc
Thượng Tọa Thích Vĩnh Hóa
Tiến Sĩ Lê Sơn Phương Ngọc
Tiến Sĩ Sinh Học Matthieu Ricard
Tiến Sĩ Vật Lý Trịnh Xuân Thuận
Tỳ Kheo Thích Đăng Quang
Tỳ Kheo Thích Đồng Thọ
Tỳ Kheo Thích Đồng Tịnh
Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Tỳ Kheo Thích Giác Nghiên
Tỳ Kheo Thích Giới Bổn
Tỳ Kheo Thích Giới Đức
Tỳ Kheo Thích Giới Nghiêm
Tỳ Kheo Thích Hoằng Đạo
Tỳ Kheo Thích Hoằng Thường
Tỳ Kheo Thích Huệ Chiểu Chùa Đại Vân Ở Chuy Châu
Tỳ Kheo Thích Minh Điền
Tỳ Kheo Thích Minh Định
Tỳ Kheo Thích Minh Trí
Tỳ Kheo Thích Nguyên Chứng
Tỳ Kheo Thích Tâm Hạnh
Tỳ Kheo Thích Thanh Giác
Tỳ Kheo Thích Thiện Hạnh
Tỳ Kheo Thích Thiện Trang
Tỳ Kheo Thích Thông Huệ
Tỳ Kheo Thích Viên Ngộ
Tỳ Kheo Visuđhacara



Một cuộc sống tích cực, phải hết sức khiêm nhường, cái ngã càng lớn thì càng bất an.