Phi Tích Thiền sư, khi mới xuất gia chuyên học luật nghi. Về sau, ngài cùng với Sở Kim Pháp sư nghiên cứu và tu tập giáo quán Thiên Thai.
Năm Thiên Bửu, ngài đến Kinh Sư, ngụ ở Chung Nam Sơn, soạn bộ “Niệm Phật Bửu Vương Luận” ba quyển, lưu truyền trong đời. Trong bộ đó về đoạn dạy chuyên chú niệm hiện tại Phật đại lược như thế này: Kinh Bi Hoa nói: “Mật Tô Vương tử từ lúc phát bồ đề tâm, trong khi đi, cứ mỗi bước chuyên tâm nhứt ý niệm Phật, nhờ vậy nên Vương Tử hiện nay đã thành Phật, tại Diệu Hỷ thế giới, chính là đức A Súc Bệ Phật”.
Tôi cho rằng khi đi nơi đường rộng, lúc bước trong vườn trong rừng đều phải hành đạo như Mật Tô Vương Tử. Nhẫn đến, dầu là lúc cầm hốt lên ngai, hoặc khi khua ngọc vào triều, ngựa xe rần rộ, cờ trống uy nghiêm, cũng đâu đặng chẳng dụng công tu niệm nơi thời gian ấy thay!
Phàm đã là người, chưa có ai không có hơi thở ra vào. Người khác phần đông dùng các thứ châu, ngọc, hột cây v..v.. làm chuỗi niệm, còn tôi thời dùng hơi thở làm chuỗi niệm. Niệm danh hiệu của Phật mà theo hơi thở rất có sự nương cậy vững vàng. Đâu sợ rằng một hơi thở chẳng trở vào, liền thuộc đời sau đó ư! Đi đứng nằm ngồi, tôi luôn dùng xâu chuỗi ấy, dầu cho đến lúc quá mỏi mê, tôi cũng ngậm Phật mà ngủ, vừa chợt tỉnh là nối liền lại. Rồi ở trong giấc ngủ đặng thấy Phật A Di Đà, như cọ cây ra khỏi, đó là khởi điểm của lửa. Chiêm bao thấy Phật mãi không hở liền thành tựu chánh định, tạn mặt gặp Phật được Phật thọ ký, nhất định vãng sanh muôn không sót một:
Hỏi: Như thế thời chỉ tưởng thầm mà không cần niệm ra tiếng ư?
Đáp: Có 5 nghĩa rất cần đến to tiếng niệm Phật. 1.-Nhổ cây cả gốc rễ phải nhờ tiếng thúc giục, trọn đời tinh tấn dứt sạch trăm mối lo sầu 2.-Tiếng Phật tới đâu thời nơi ấy muôn điều tai họa đều tan cả, công đức của tòng lâm sơn môn được phồn thịnh đều nhờ nơi tiếng 3.-Thánh cảnh hiện tiền, hoa trời tuôn rưới cũng do nơi tiếng 4.-Như kéo cây đá quá nặng, rập tiếng hè nhau liền đi nhẹ phơi phới 5.-Như dàn quân xông trận nhờ tiếng trống còi, binh sĩ tới lui do nơi phát lịnh.
Cứ theo các nghĩa trên đây, tưởng cùng niệm ra tiếng đồng dùng, chỉ quán song vận, rất hiệp ý của Phật, nào có ngại gì! Hoa Nghiêm nói: “Thà thọ vô lượng khổ mà đặng nghe tiếng Phật, chớ chẳng chịu hưởng những điều vui mà không được nghe danh hiệu Phật”. Vậy thời tiếng Phật, vang xa thêm lớn căn lành cho muôn loài. Dường như tiếng sấm mùa xuân làm động sanh lực của cây cỏ, đâu nên xem thường.”…
Về đoạn dạy “lý sự song tu, tức sanh vô sanh”, ngài nói: “Nhiều người nói niệm Phật là hữu niệm, còn tôi cho rằng niệm Phật là vô niệm. Niệm chính là “không”, đâu được cho là “hữu”. Chẳng phải niệm diệt mới thành “không”, đâu được cho là “vô”. Thể tánh của niệm “tự không”, đâu được cho là “sanh diệt”. Lại “tâm vô sở niệm” đó là “ưng vô sở trụ”, mà “tu niệm Phật” đó là “nhi sanh kỳ tâm”. Lại “tâm vô sở niệm” đó là “tùng vô trụ bổn”, mà tu niệm Phật: đó là “lập nhứt thiết pháp”. Lại “tâm vô sở niệm” đó là “niệm tức thị không”, “mà tu niệm Phật” đó là “không tức thị niệm”(I) . Đây chính là nghĩa “song tịch song chiếu”. Chiếu mà thường tịch, đó là “vô sở niệm tâm”, tịch mà thường chiếu, đó là “mà tu niệm Phật, chánh định tịch chiếu của đức Như Lai, là vị cứu cánh của niệm Phật tam muội vậy. Cho nên niệm Phật tam muội có thể sanh Thủ Lăng Nghiêm Sư Tử Hống định.
Bài kệ phá tướng trong kinh “Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội” nói: – Niệm thân vàng ròng của Phật, an trụ tâm không tham luyến. Gẫm pháp gì gọi là Phật? Nhiếp tâm thường quan sát luôn. Sắc vàng không phải Như Lai, bốn uẩn sau cũng như vậy. Rời sắc thời không Như Lai, người quán sắc phải nên hiểu chính đó là chỗ tịch tịnh, tối thắng nhất của Như Lai. Có thể khéo diệt tất cả những tà kiến của ngoại đạo. Như Long Vương giáng mưa lớn, tất cả loài đều được nhờ.
Trong kinh này chỉ rõ lục độ vạn hạnh, chưa có một pháp gì chẳng phải là “niệm Phật tam muội”. Trong Đạt phẩm Bát Nhã, đức Phật nói các pháp không tịch để dẫn dạy hạng độn căn vì hạng này hay sanh chấp trước. Còn với bực lợi căn đức Phật giảng tướng hảo của chư Phật, vì biết là sen chẳng nhiễm trần. Trong kinh “Tọa Thiền Tam Muội” nói: “Bồ Tát tọa thiền chẳng niệm tưởng tất cả pháp khác, chỉ niệm một đức Phật: như núi Tu Di vàng ở giữa biển rộng trong mát. Nhẫn đến công đức pháp thân của Phật cũng niệm tưởng như vậy.”
Do các đoạn kinh văn và những lý trên, mà biết rằng chẳng đặng cho không niệm là vô niệm, quán Phật thật tướng quán thân cũng vậy, gặp cảnh nào cũng là chơn tánh, không tâm nào chẳng phải là Phật. Quyết định không rời niệm mà gìn vô niệm, lìa sanh mà lập vô sanh. Nếu rời niệm cùng sanh mà lập vô niệm với vô sanh, chính là bởi chẳng rõ lý “phiền não tức Bồ đề, chúng sanh tức Phật” vậy. Rời lìa là chẳng được, thời chính niệm mà là vô niệm, chính vãng sanh mà thật là vô sanh. Nghĩa đó rất rõ ràng, như đêm thu trong lặng, vầng trăng tròn sáng ra khỏi lùm mây!
Năm Vĩnh Thới nhà Đường, Thiền sư từng được triều đình thỉnh giữ chức “Chứng Nghĩa Chánh Viện” trong các hội dịch kinh. Như: Nhơn Vương Hộ Quốc Bát Nhã Kinh, Mật Nghiêm Kinh v..v..
Trích ở các bộ Tống Cao Tăng Truyện