Tuệ Tịnh 慧淨 (578 - 653?): Bậc đống lương Phật pháp đời Đường, người xứ Chân Định 真定 (Hà Bắc, 河北), họ Phòng 房. Gia đình nhiều đời nối nghiệp Nho tông nên trong làng đều kính chuộng. Năm 14 tuổi xuất gia, nghiên tập Đại Trí độ luận, và các Kinh bộ khác. Chưa bao lâu, từ luận sư Chí Niệm tập học Tạp A-tỳ-đàm Tâm luận, Đại Tỳ-bà-sa luận, v.v… Bác thông kinh luận, có biện tài và năng khiếu thơ văn. Năm Trinh Quán 貞觀 thứ 2 (628), Sư tham gia dịch kinh, hỗ trợ bút thọ Đại thừa Trang nghiêm Kinh Luận, do ngài Ba-la-phả-mật-đa-la (波羅頗蜜多羅, Prabhākaramitra, 565 - 633) dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ, từ năm 630 đến năm 633. Sư cũng biên soạn Sớ [cho Luận ấy] gồm 30 quyển, do vậy danh tiếng của Sư được xưng tụng khắp nơi. Phòng Huyền Linh (房玄齡, 579 – 648), Tể tướng của vua Đường Thái Tông, gọi Sư là Bồ-tát ở phương Đông.
Năm Trinh Quán thứ 10 (636), nơi Kỷ Quốc tự 紀國寺 ở Kinh Đô, Sư mở lớp giảng dạy Phật pháp, các hàng vương công, sĩ phu có tiếng tăm không ai chẳng tụ hội. Năm Trinh Quán thứ 13 (639), vua Đường Thái Tông tập hợp các hoạn thần và những học sĩ của Tam giáo, nơi điên Hoằng Văn, thỉnh Sư khai giảng kinh Pháp Hoa, đạo sĩ Thái Hoảng 蔡晃 giảng về Đạo luận, rất khéo léo tốt đẹp. Vua Cao Tông ban lệnh cho cùng nhau kháng luận, Sư bèn thi triển sự biện tài vô ngại, bẻ gãy luận điểm sắc bén của Đạo môn. Phật pháp hưng tịnh vào đời Đường, không thể không kể công lao của sa-môn Tuệ Tịnh. Về sau Sư đảm nhận trụ trì Phổ Quang tự, thường đem diệu âm dạy bảo cho quần sinh. Trinh Quán thứ 19 (645), pháp sư Huyền Trang từ Tây Vực trở về nước Đường, vua sắc Sư tham dự dịch kinh, nhưng Sư cáo bệnh bèn thôi, khi ấy 68 tuổi. Sau đó không rõ hành trạng của Sư. Trước tác của Sư gồm có: Pháp Hoa Kinh Toản Thuật, A Di Đà Kinh Nghĩa Thuật (ĐTK 1756), Ôn Thất Kinh Sớ (ĐTK 2780), Vu Lan Bồn Kinh Toản Thuật (ĐTK 2781), Di Lặc Thượng SInh Kinh Yếu Toản, Di Lặc Hạ Sinh Kinh Yếu Toản, Tạp Tâm Luận Sớ, Câu Xá Luận Sớ, Tạp Tâm Huyền Văn (30 quyển),Thi Anh Hoa (10 quyển), Kim Cương Bát Nhã Kinh Chú, Thắng Man Kinh Yếu Toản, Nhân Vương Bát Nhã Xuất Yếu, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Sớ, các bài Tán, Thi phú hơn 10 loại. [Tục Cao Tăng Truyện, Q.3, Phật Tổ Thống Ký, Q.39]